YÊU CẦU SỬA ĐỔI, BỔ SUNG ĐƠN KHỞI KIỆN

Xác định nội dung sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện

Qua kiểm tra đơn khởi kiện, nếu thấy đơn kiện không đầy đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 164 BLTTDS, chưa thể hiện hoặc chưa rõ bảy vấn đề trong mục 1.1.2 hoặc chưa bảo đảm về hình thức, Tòa án thông báo cho người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và giấy tờ, tài liệu gửi kèm trong một thời hạn không quá ba mươi ngày. Tùy từng trường hợp cụ thể, tùy thuộc vào những nội dung cần sửa đổi, bổ sung, Tòa án quyết định cụ thể ngày người khởi kiện phải sửa đổi, bổ sung. Trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể gia hạn thêm nhưng không quá mười lăm ngày theo quy định tại khoản 1 Điều 169 BLTTDS.

Nội dung cần sửa đổi, bổ sung của đơn khởi kiện được xác định trên cơ sở các mục được nêu tại khoản 2 Điều 164. Các nội dung này cần được chỉ rõ trong thông báo. Ví dụ có đơn kiện không nói rõ kiện ai, hoặc có trường hợp nêu tên bị đơn, nhưng không nêu địa chỉ bị đơn. Trong trường hợp này, thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện phải chỉ rõ yêu cầu người khởi kiện phải ghi rõ họ tên bị đơn, địa chỉ của bị đơn. Không ghi chung chung, không chỉ rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong thông báo.

Soạn văn bản thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện

Theo quy định tại khoản 1 Điều 169 BLTTDS, trường hợp cần sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện thì Tòa án phải làm thông báo gửi cho đương sự.

Trong thông báo, phải nói rõ Tòa án làm thông báo, người được thông báo, thông báo yêu cầu những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung là gì, thời hạn phải thực hiện. Trong thông báo, khi ghi hậu quả pháp lý của việc không thực hiện yêu cầu sửa đổi, bổ sung theo khoản 2 Điều 169 BLTTDS, có thể ghi: “Nếu ông (bà) không sửa đổi, bổ sung yêu cầu được ghi trong bản thông báo này, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho ông (bà).

Văn bản thông báo có thể được giao trực tiếp hoặc gửi cho người khởi kiện qua bưu điện. Việc giao hoặc gửi phải có sổ theo dõi.

Thời gian thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện không tính vào thời hiệu khởi kiện. Ngày khởi kiện vẫn được xác định là ngày nộp đơn khởi kiện, nếu người khởi kiện nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi, nếu đơn khởi kiện được gửi qua bưu điện.

Sau khi người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Tòa án, Tòa án tiếp tục thụ lý vụ án theo thủ tục chung. Nếu hết thời hạn do Tòa án ấn định mà người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Tòa án, Tòa án căn cứ khoản 2 Điều 169 BLTTDS trả lại đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo cho họ.

Trường hợp trong đơn khởi kiện không ghi đầy đủ cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, tên, địa chỉ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thì Tòa án yêu cầu người khởi kiện ghi đầy đủ và đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu người khởi kiện không thực hiện, thì Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 169 của BLTTDS trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ và không được thụ lý vụ án. Việc Tòa án thụ lý vụ án để sau đó ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án với lý do là chưa tìm được địa chỉ của bị đơn là không đúng quy định của BLTTDS, vì đây không phải là trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 189 BLTTDS. Tòa án cũng không được tự mình tiến hành thông báo tìm người bị kiện, vì đây là nghĩa vụ của đương sự.

Đối với trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện có ghi đầy đủ cụ thể và đúng địa chỉ của người bị kiện, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú mà không thông báo địa chỉ mới cho người khởi kiện, cho Tòa án, nhằm mục đích dấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện, thì được coi là trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình dấu địa chỉ. Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Nếu người khởi kiện không biết hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan để ghi trong đơn khởi kiện, thì họ phải thực hiện việc thông báo tìm tin tức, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan.

Xem xét yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của BLTTDS đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện. Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một quy định tại chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS hướng dẫn vấn đề này như sau: Nếu đơn kiện cùng được gửi với đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa án cần phải xem có đủ các điều kiện: (1) Do tình thế khẩn cấp, tức là cần phải được giải quyết ngay, không chậm trễ; (2) Cần phải bảo vệ ngay bằng chứng trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được; (3) Ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, có thể là hậu quả vật chất hoặc hậu quả phi vật chất.

Trong trường hợp đơn khởi kiện đã có các nội dung để xác định việc thụ lý đơn khởi kiện và giải quyết vụ án là thuộc thẩm quyền của mình, nhưng cần phải sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác, thì Tòa án thụ lý giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay.

Trong trường hợp này, Chánh án Tòa án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý đơn yêu cầu. Nếu nhận được đơn ngoài giờ làm việc, kể cả ngày nghỉ thì người tiếp nhận đơn phải báo cáo ngay với Chánh án Tòa án. Chánh án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn. Trong thời hạn bốn tám giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo để xác định đơn kiện có thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Tòa án mà họ yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không. Nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.

Thủ tục xem xét ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 117 BLTTDS và hướng dẫn trong Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP (xem mục1.4. chương IV: Chuẩn bị xét xử).

Trả lại đơn khởi kiện

Những trường hợp trả lại đơn khởi kiện

Qua kiểm tra đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ gửi kèm, Tòa án quyết định không thụ lý và trả lại đơn khởi kiện. Theo quy định tại khoản 1 Điều 168, Tòa án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:

(1) Thời hiệu khởi kiện đã hết;

(2) Người khởi kiện không có quyền làm đơn khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

(3) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;

(4) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của BLTTDS mà người khởi kiện không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng;

(5) Chưa đủ điều kiện khởi kiện;

(6) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Soạn văn bản thông báo trả lại đơn khởi kiện

Theo khoản 2 Điều 169 BLTTDS, khi trả lại đơn khởi kiện, Tòa án phải có văn bản trong đó ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi kiện được thể hiện dưới hình thức thông báo, theo mẫu số 03 ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP.

Trong thông báo trả lại đơn khởi kiện, Tòa án ghi rõ Tòa án trả lại đơn khởi kiện; người được trả lại đơn khởi kiện, lý do trả lại đơn khởi kiện (ghi rõ, đầy đủ lý do), các chứng cứ, tài liệu trả kèm theo đơn khởi kiện, thời hạn khiếu nại của người khởi kiện.

Thông báo trả lại đơn khởi kiện có thể được giao trực tiếp hoặc gửi cho người khởi kiện qua bưu điện. Việc giao hoặc gửi thông báo này phải có sổ theo dõi.

Giải quyết khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện

Theo quy định tại Điều 170 BLTTDS, trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải ra một trong các quyết định giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện hoặc nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án. Trường hợp Tòa án nhận lại đơn khởi kiện thì việc thụ lý được tiến hành theo thụ tục chung.

Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác

Trước khi có BLTTDS, đây là trường hợp Tòa án trả lại đơn cho đương sự. Khi trả đơn, Tòa án giải thích cho đương sự biết quyền khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền và đương sự quyết định có khởi kiện lại tại Tòa án có thẩm quyền hay không. Quy định như vậy là phù hợp với quyền định đoạt cũng như thẩm quyền thụ lý của Tòa án. Hiện nay theo quy định tại khoản 2 Điều 167 thì Tòa án chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện biết.

Thụ lý vụ án dân sự

Qua kiểm tra đơn khởi kiện, Tòa án thấy đủ điều kiện để thụ lý vụ án, Tòa án phải tiến hành thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng

Thông báo nộp tạm ứng án phí.

Tạm ứng án phí là khoản tiền mà đương sự phải nộp để Toà án thụ lý và giải quyết vụ án. Nếu đương sự không nộp được khoản tiền này thì Toà án không thụ lý và không giải quyết vụ án. Để có thể xác định được mức tạm ứng mà đương sự phải nộp, Tòa án phải căn cứ vào văn bản quy định về án phí lệ phí của Tòa án. Theo quy định tại Điều 134 BLTTDS thì cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản về án phí, lệ phí Tòa án là ủy ban thường vụ Quốc hội.

Trước khi ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành văn bản hướng dẫn về án phí, lệ phí, các Tòa án hiện vẫn sử dụng Nghị định số 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án.

Theo Nghị định số 70/CP, Tòa án tính mức tạm ứng án phí bắt đầu từ việc xác định đây là loại án có giá ngạch hay là không có giá ngạch. Đối với loại không có giá ngạch thì mức tạm ứng mà đương sự phải nộp là năm mươi nghìn đồng. Đối với vụ án có giá ngạch mà giá trị tranh chấp từ trên một triệu đồng thì mức tạm ứng bằng 50% mức án phí của vụ án đó. Đối với vụ án có giá ngạch, để xác định được mức án phí thì phải xác định được sơ bộ giá trị của tài sản tranh chấp.

Ngay khi nhận đơn khởi kiện liên quan đến tài sản nói riêng và có giá ngạch nói chung, Tòa án yêu cầu đương sự tự xác định giá trị của tài sản tranh chấp. Nếu bản thân đương sự không tự đánh giá được thì Tòa án có ý kiến và lưu ý đương sự đây chỉ là việc xác định để tính mức tạm ứng án phí. Theo Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP, Tòa án phải có Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí cho đương sự theo mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP.

Tuy nhiên, nếu theo mẫu số 04, thì không có mức tiền tạm ứng đương sự phải nộp. Trong khi đó, đây là một nội dung rất quan trọng mà thông báo nộp tạm ứng án phí cần thiết phải ghi rõ. Trong thực tế, hầu hết các Tòa án trên cơ sở mẫu số 04 đã soạn lại thông báo nộp tiền tạm ứng án phí. Thông báo ghi rõ người được thông báo phải nộp tạm ứng án phí với số tiền cụ thể. Thông báo cũng ghi rõ nghĩa vụ nộp lại cho Tòa án biên lai nộp tạm ứng án phí của người khởi kiện. Theo quy định tại khoản 2 Điều 171, trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tạm ứng án phí. Tòa án sẽ thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.

Thực tế, việc nộp tiền tạm ứng án phí thực hiện tại cơ quan thi hành án dân sự, nên ngày nộp tiền và ngày nộp lại biên lai thu tiền tại toà án có thể là hai ngày khác nhau. Trong trường hợp này, thì ngày thụ lý được tính từ ngày nguyên đơn xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, vì về nguyên tắc, chỉ coi là việc đương sự đã nộp tiền tạm ứng nếu họ xuất trình được biên lai thụ tiền tạm ứng án phí tại toà án.

Nếu người khởi kiện không nộp tạm ứng án phí trong thời hạn mười lăm ngày vì có trở ngại khách quan thì thời gian có trở ngại khách quan không tính vào thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí.

Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP quy định trong trường hợp này, Tòa án ấn định cho người khởi kiện trong thời hạn bảy ngày, sau khi đã hết thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tạm ứng án phí. Hết thời hạn này, người khởi kiện mới nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, thì giải quyết như sau: (1) Nếu chưa trả lại đơn khởi kiện thì Tòa án tiến hành thụ lý vụ án; (2) Trường hợp đã trả lại đơn khởi kiện mà người khởi kiện chứng minh được là họ đã nộp tiền tạm ứng án phí đúng thời hạn quy định, nhưng vì trở ngại khách quan nên họ nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án không đúng hạn, thì Tòa án yêu cầu họ nộp lại đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ kèm theo và tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung; (3) Trường hợp sau khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện mới nộp tiền tạm ứng án phí và nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, nếu không vì trở ngại khách quan, thì được coi là nộp đơn khởi kiện lại. Tòa án tiếp tục thụ lý vụ án, nếu còn thời hiệu khởi kiện.Trong trường hợp đã hết thời hiệu khởi kiện, thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho họ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 168 BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP.

Hết thời hạn được hướng dẫn nêu trên mà người khởi kiện không nộp cho Tòa án biên lại nộp tiền tạm ứng án phí, thì Tòa án thông báo cho họ biết về việc không thụ lý vụ án với lý do là họ không nộp tiền tạm ứng án phí.

Trường hợp đương sự trong diện được miễn án phí, miễn nộp án phí thì Tòa án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo theo quy định tại khoản 4 Điều 171 BLTTDS. Theo Điều 13 Nghị định số 70/CP, những trường hợp sau đây không phải nộp tiền tạm ứng án phí: Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên ngoài giá thú; Người đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; Người đòi bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự và vụ án hành chính mà yêu cầu không được Tòa án chấp nhận; Người khiếu nại về danh sách cử tri.
Người có khó khăn về kinh tế được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức xã hội, nơi người đó cư trú, làm việc chứng nhận thì có thể được Tòa án cho miễn nộp một phần hoặc toàn bộ tiền tạm ứng án phí và có thể được Tòa án miễn nộp một phần hoặc toàn bộ án phí.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

100 CÂU HỎI VỀ TRỌNG TÀI QUỐC TẾ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ HỒNG KÔNG

Vấn đề có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bổ nhiệm mới Chánh Tòa Hành chính, Trưởng, Phó phòng Tồ chức cán bộ và Phòng giám đốc kiểm tra