Những vấn đề sửa đổi, bổ sung về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và giải quyết việc dân sự


Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã sửa đổi bổ sung 17 chương, trong đó sửa 50 điều, bổ sung 12 điều (bổ sung 1 chương với 2 điều) và bãi bỏ 8 điều. Riêng phần xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và giải quyết việc dân sự đã sửa đổi 11 chương (trong đó sửa 30 điều, bổ sung 8 điều và bãi bỏ 8 điều), bổ sung 1 chương 3 điều.
1. Chương XII - Khởi kiện và thụ lý vụ án
Sửa đổi, bổ sung một số Điều 164, 168, 170, 176 và 177 như sau:
1.1. Điều 164 về hình thức, nội dung đơn khởi kiện
Theo Điều 34 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định:
Người khởi kiện phải làm đơn ghi rõ:
- Họ tên, địa chỉ của mình; của bị đơn, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Nội dung sự việc, yêu cầu của mình
- Những tài liệu, lý lẽ chứng minh cho những yêu cầu đó.
Theo khoản 2 điều 164 BLTTDS năm 2004 quy định hình thức, nội dung đơn khởi kiện
a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
b) Tên Toà án nhận đơn khởi kiện;
c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
d) Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có;
đ) Tên, địa chỉ của người bị kiện;
e) Tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có;
g) Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
h) Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;     
i) Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp;
k) Các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án;
l) Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn.
Quy định như thế, thì thể hiện điểm i và điểm k không rõ, vì thực chất điểm i là tài liệu kèm theo đơn khởi kiện, còn điểm g đã bao hàm cả điểm k trong trường hợp người khởi kiện là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự; người không biết chữ, không nhìn thấy được, hoặc không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ được thì đơn khởi kiện của họ giải quyết như thế nào?
Vì vậy điều 164 sửa lại đã bỏ điểm k còn điểm i và điểm l chuyển thành khoản 3 đồng thời bổ sung nói rõ về đơn khởi kiện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự và người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần thì phải do ai ký tên... Nên Điều 164 đã được sửa đổi, bổ sung về vấn đề này cho rõ ràng, dễ hiểu như sau:
- Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ;
- Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn;
- Trường hợp khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do người đại diện theo pháp luật của những người này ký tên hoặc điểm chỉ;
- Trường hợp người khởi kiện không biết chữ, không nhìn được, không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì phải:
+ Có người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã.
+ Người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng nhận trước mặt người khởi kiện và người làm chứng. Cụm từ “trước mặt” được hiểu là “trước sự có mặt của...”, tránh tình trạng hiểu một cách máy móc.
* Kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.

1.2. Điều 168 về trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện
- Theo khoản 1 điều 168 BLTTDS năm 2004 quy định Toà án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
a) Thời hiệu khởi kiện đã hết;
b) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;
d) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này mà người khởi kiện không đến Toà án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng;
đ) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;
e) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Trong thực tế việc quy định tại điều 168 còn có nhiều vướng mắc, chưa rõ vì vậy đã sửa lại như sau:
+ Bỏ điểm a khoản 1 đối với trường hợp trả đơn khởi kiện khi thời hiệu khởi kiện đã hết.
Như vậy, kể từ ngày 1/1/2012 trở đi, khi nhận đơn khởi kiện Toà án không được cho rằng vì hết thời hiệu nên trả đơn khởi kiện, nếu đơn đó đủ những điều kiện thụ lý thì phải thụ lý, trong quá trình chuẩn bị xét xử nếu xét thấy hết thời hiệu khởi kiện thì áp dụng điểm h khoản 1 Điều 192 đình chỉ giải quyết vụ án (đây là một quan điểm mới về thời hiệu khởi kiện).
+ Bổ sung thêm những trường hợp không được trả lại đơn khởi kiện, tuy sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là xin thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ.
+ Tại khoản 3 Điều 171 quy định: Toà án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Nhưng chưa nói rõ nếu họ không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 2 điều 171 thì xử lý như thế nào. Cho nên, điểm c khoản 1 Điều 168 đã bổ sung “c) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Toà án, trừ trường hợp có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng”
- Tại khoản 2 Điều 168 BLTTDS năm 2004 chỉ quy định: Khi trả lại đơn khởi kiện Toà án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, nay bổ sung khi trả đơn khởi kiện phải trả các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp văn bản của Toà án về lý do trả đơn khởi kiện.
- Đồng thời, Luật sửa đổi đã quy định rõ: đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong các trường hợp sau đây:
+ Người khởi kiện có quyền khởi kiện hoặc đã đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
+ Xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, xin thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;
+ Đã có đủ điều kiện khởi kiện;
+ Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
1.3. Điều 170 về khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện 
Theo điều 170 BLTTDS năm 2004 quy định: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện như sau:
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo do Toà án trả lại, người khởi kiện có quyền khiếu nại với Chánh án Toà án đã trả lại đơn khởi kiện;
2. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Toà án phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;
b) Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
Như vậy theo quy định tại điều 170 BLTTDS năm 2004 thì chưa nói rõ vai trò của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc trả đơn khởi kiện của Toà án; đồng thời nếu sau khi Chánh án của Toà án đã trả đơn khởi kiện giải quyết khiếu nại của đương sự mà người khởi kiện đó không đồng ý thì sao? Vì vậy điều 170 đã sửa đổi:
- Khoản 1 Điều 170 bổ sung “Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Toà án, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đã trả lại đơn khởi kiện”.
- Bổ sung khoản 3 Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trả lời đơn khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện của Chánh án Toà án, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết”.
- Bổ sung thêm khoản 4 Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;
b) Yêu cầu Toà án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp là quyết định cuối cùng. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp phải được gửi ngay cho người khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát đã kiến nghị và Toà án đã ra quyết định trả lại đơn khởi kiện”.
1.4. Điều 176 về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn
Tại khoản 1 điều 176 BLTTDS năm 2004 quy định Cùng với việc phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện thì bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn”.
Trong thực tế, có nhiều trường hợp người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có thể yêu cầu độc lập nhằm buộc nguyên đơn, hoặc buộc bị đơn hay buộc cả nguyên đơn và bị đơn cùng thực hiện nghĩa vụ nhằm đảm bảo lợi ích của người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên quan. Cho nên yêu cầu độc lập đó buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ thì bị đơn cũng có thể phản tố (nếu có đủ điều kiện theo quy định về phản tố. Tuy nhiên khoản 1 điều 176 chưa quy định vấn đề này, nên đã bổ sung bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn), nay bổ sung quyền phản tố người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
- Đồng thời, bổ sung khoản 3 bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
1.5. Điều 177 về quyền yêu cầu độc lập và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Bổ sung người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
2. Chương XIII - Hoà giải và Chuẩn bị xét xử
2.1. Sửa đổi các Điều 184, 189, 192, 193 và 195 như sau
2.1.1. Điều 184 về thành phần phiên hoà giải được sửa đổi, bổ sung như sau:
- Sửa đổi khoản 3 trong trường hợp hoãn phiên hoà giải thì Thẩm phán phải thông báo việc hoãn phiên hoà giải và việc mở lại phiên hoà giải cho đương sự biết.
- Bổ sung thêm khoản 4 “Khi hoà giải, trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia phiên hoà giải để giúp cho việc hoà giải đạt kết quả”.
2.1.2. Điều 189 về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Theo điều 189 BLTTDS năm 2004 quy định Toà án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong những trường hợp:
1. Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó.
2. Một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật.
3. Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế.
4. Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án.
Trong thực tế có rất nhiều vụ án trong quá trình thu thập tài liệu chứng cứ, hoặc uỷ thác tư pháp thường gặp khó khăn, hết thời gian chuẩn bị xét xử nhưng chưa có kết quả, nếu đưa vụ án ra xét xử thì chưa đủ căn cứ, nếu không đưa vụ án ra xét xử mà không tạm đình chỉ thì trở thành án tồn đọng quá hạn luật định.
Vì vậy, ngoài những căn cứ để Toà án ra quyết định tạm đình chỉ đã được quy định tại Điều 189 BLTTDS năm 2004, bổ sung khoản 5 “Cần đợi kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Toà án mới giải quyết được vụ án mà thời hạn giải quyết đã hết”.
2.1.3. Điều 192 về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
- Khoản 1 Điều 192:
+ Theo điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2004 nếu nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Như vậy, trong trường hợp họ có đơn xin vắng mặt hoặc vì lý do bất khả kháng mà nguyên đơn vắng mặt thì giải quyết như thế nào. Vì vậy, điểm d khoản 1 được sửa đổi theo đó nếu nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng thì Toà án không được đình chỉ việc giải quyết vụ án mà tuỳ theo trường hợp cụ thể giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
+ Bổ sung 02 căn cứ đình chỉ vụ án đó là:
h) Thời hiệu khởi kiện đã hết;
i) Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 168 của Bộ luật này mà Toà án đã thụ lý”.
- Khoản 2 Điều 192:
Quy định những công việc mà Toà án phải giải quyết sau khi ra quyết định đình chỉ vụ án:
+ Xoá tên vụ án đó trong sổ thụ lý;
+ Trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu có yêu cầu”.
2.1.4. Điều 193 về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được sửa đổi như sau:
- Theo khoản 1 điều 193 BLTTDS năm 2004 quy định: những vụ án bị đình chỉ theo theo quy định tại Điều 192 nói chung là không có quyền khởi kiện lại trừ các trường hợp quy định tại điểm c (người khởi kiện rút đơn khởi kiện), điểm e (nguyên đơn đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt) và tranh chấp liên quan đến phá sản tại điểm g khoản 1 điều 192. Nay khoản 1 Điều 193 quy định bổ sung trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 168 (những trường hợp được quyền khởi kiện lại).
- Về xử lý tiền tạm ứng án phí: Khoản 2 Điều 193 BLTTDS năm 2004 quy định khi Toà án ra quyết định đình chỉ vụ án thì tiền tạm ứng án phí của đương sự đã nộp được sung vào công quỹ của Nhà nước. Riêng việc đình chỉ vụ án thuộc trường hợp trả đơn khởi kiện thì đương sự được nhận lại tiền tạm ứng án phí mà họ đã nộp. Với quy định này nếu sau khi khởi kiện nguyên đơn rút đơn khởi kiện, hoặc trường hợp sau khi khởi kiện có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản thì tiền tạm ứng án phí vẫn bị sung vào công quỹ của Nhà nước. Quy định như vậy là chưa hợp lý, không khuyến khích việc tự thương lượng, tự thoả thuận của đương sự.
Vì vậy, khoản 3 Điều 193 được sửa đổi trong trường hợp đình chỉ vụ án do nguyên đơn rút đơn khởi kiện, hoặc khi có quyết định phá sản, hay đình chỉ do thời hiệu khởi kiện đã hết và theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật này mà Toà án đã thụ lý thì tiền tạm ứng án phí của họ đã nộp được nhận lại.
2.1.5. Điều 195 về quyết định đưa vụ án ra xét xử
Sửa đổi, bổ sung đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử, nếu có Kiểm sát viên dự khuyết thì ghi rõ họ tên của Kiểm sát viên đó trong quyết định.
2.2. Bổ sung Điều 185a về trình tự hoà giải
BLTTDS năm 2004 chỉ quy định thành phần, nội dung và biên bản hoà giải, chưa quy định về trình tự hoà giải. Cho nên, có nhiều vụ án việc hoà giải chưa đạt yêu cầu, cá biệt có trường hợp thư ký chủ trì việc hoà giải…
Vì vậy, đã bổ sung Điều 185a về trình tự hoà giải như sau:
1. Trước khi tiến hành hoà giải, Thư ký Toà án báo cáo Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên hoà giải đã được Toà án thông báo.
2. Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của những người tham gia phiên hoà giải.
3. Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải theo nội dung hoà giải quy định tại Điều 185 của Bộ luật này.
4. Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự trình bày ý kiến của mình về những nội dung tranh chấp và đề xuất những vấn đề cần hoà giải.
5. Thẩm phán xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất.
6. Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã hoà giải thành và vấn đề chưa thống nhất”.
3. Chương XIV – Phiên toà sơ thẩm
Sửa đổi, bổ sung các Điều 199, 202, 208 như sau:
3.1. Điều 199 về sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
BLTTDS năm 2004, quy định việc xử lý trường hợp các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có mặt hoặc vắng mặt tại phiên Toà được thể hiện trong các Điều 199, Điều 200, Điều 201 và Điều 203. Việc quy định ở nhiều điều luật gây ra sự trùng lặp và có những nội dung chưa rõ làm cho việc áp dụng các điều luật đó trong việc xét xử còn có nhiều khó khăn, sai sót...
Vì vậy, Điều 199 được sửa đổi như sau:
- Quy định việc xử lý vấn đề có mặt hoặc vắng mặt không chỉ đối với nguyên đơn mà đối với sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Đối với trường hợp triệu tập hợp lệ lần thứ nhất: đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt; trường hợp có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Khi hoãn phiên toà trong trường hợp này, Toà án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết việc hoãn phiên toà.
- Đối với trường hợp triệu tập hợp lệ lần thứ hai: đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên toà, nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì xử lý như sau:
+ Nguyên đơn, người đại diện theo pháp luật vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên toà thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;
+ Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên toà thì Toà án tiến hành xét xử vắng mặt họ;
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiêntoà thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Toà án quyết định đình chỉ việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Bãi bỏ điều 200, 201 và 203 BLTTDS
* Tuy nhiên, điều luật chưa quy định nếu trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố nhưng triệu tập hợp lệ lần thứ 2 vẫn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên toà thì xử lý như thế nào.
* Thế nào là triệu tập hợp lệ lần thứ hai:
Tại báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện BLTTDS của Toà án nhân tối cao đã nêu: “…BLTTDS quy định mỗi đương sự được hoãn phiên toà 2 lần, trong vụ án có nhiều đương sự (40 đương sự) mà các đương sự một phía cố tình gây khó khăn thay nhau hoãn phiên toà sẽ mất rất nhiều thời gian, công sức của Toà án và ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự khác. Do vậy, cần được sửa đổi theo hướng tổng lần hoãn trong một vụ án không quá 4 lần.”
Tại báo cáo thẩm tra sơ bộ Dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS số 4110 /BC/ UBTP 12 ngày 13/8/2010 của Uỷ ban Tư pháp đã có ý kiến, Theo Tờ trình của TANDTC thì Ban soạn thảo còn có hai quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất đề nghị giữ như quy định hiện hành;
- Quan điểm thứ hai đề nghị bỏ cụm từ “có lý do chính đáng” quy định tại khoản 1 Điều 200 và khoản 1 Điều 201 của BLTTDS nhằm bảo đảm cho mỗi đương sự được vắng mặt một lần tại phiên toà mà không phân biệt có lý do chính đáng hay không chính đáng và quy định tổng số lần hoãn đối với một vụ án dân sự không quá 04 lần.
Dự thảo Luật được thể hiện theo quan điểm thứ hai.
Thường trực Uỷ ban Tư pháp nhận thấy, qua kết quả giám sát hoạt động xét xử của Toà án nhân dân, việc áp dụng quy định này của BLTTDS hiện hành trong nhiều trường hợp đã gây khó khăn cho Toà án trong quá trình tổ chức xét xử vụ án, đặc biệt là đối với những vụ án có nhiều đương sự. Vì vậy, cần phải sửa đổi các quy định hiện hành cho phù hợp để đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn. Tuy nhiên, dự thảo Luật nên quy định nghĩa vụ của các đương sự phải có mặt khi được Toà án triệu tập, trừ một số trường hợp đặc biệt khi đương sự gặp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì cần được xem xét hoãn phiên toà một lần để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Đối với lần xét xử tiếp theo nếu các đương sự vẫn không thể có mặt tại phiên toà thì phải cử đại diện đến phiên toà. Nếu bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không cử đại diện thì Toà án xét xử vắng mặt họ. Việc quy định như trên đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và không để đương sự lợi dụng kéo dài việc xét xử.”
Theo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLTTDS số 713/BC- UBTVQH 12 ngày 14/3/2011 của Uỷ ban thường vụ quốc hội đã có ý kiến.
Về sự có mặt của bị đơn tại phiên toà (khoản 32 Điều 1 dự thảo Luật sửa đổi Điều 199, Điều 200 và Điều 201 BLTTDS).
Có ý kiến đề nghị quy định rõ trong trường hợp bị đơn vắng mặt không cử người đại diện tham gia phiên toà thìToà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ; trong trường hợp vụ án có nhiều bị đơn nếu một bị đơn vắng mặt nhưng không cử người đại diện tham gia phiên toà thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn đó.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, tại khoản 1 Điều 199; khoản 1 Điều 200; khoản 1 Điều 201 BLTTDS quy định “Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà” đã dẫn đến tình trạng các đương sự lần lượt xin hoãn phiên toà nhằm cố tình kéo dài thời gian xét xử vụ án, gây khó khăn cho Toà án trong việc tổ chức xét xử, đồng thời gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Để khắc phục bất cập nêu trên, khoản 32 Điều 1 dự thảo Luật quy định theo hướng sửa đổi quy định tại các Điều 199, 200 và 201 BLTTDS chỉ hoãn phiên toà khi Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt. Khi Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà một trong những người tham gia tố tụng vẫn vắng mặt không do sự kiện bất khả kháng thì tuỳ từng trường hợp cụ thể, Toà án sẽ tiến hành xét xử vắng mặt họ hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện hoặc yêu cầu độc lập của người vắng mặt. Quy định như trên là vừa bảo đảm quyền tố tụng của các bên đương sự, đồng thời hạn chế việc các đương sự lạm dụng quyền được vắng mặt để cố tình kéo dài thời gian xét xử vụ án, gây khó khăn cho các đương sự khác và Toà án...”.
Từ báo cáo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội như nêu ở trên cần phải hiểu quy định mới về Điều 199 là đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai thì không hoãn phiên toà nữa dù có đương sự khác mới vắng mặt lần đầu.
3.2. Điều 202 về xét xử trong trường hợp đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự vắng mặt tại phiên toà
Điều 202 sửa lại cho phù hợp với Điều 199 mới sửa đổi và việc bãi bỏ Điều 200 và Điều 201.


3.3. Điều 208 về thời hạn hoãn phiên toà và quyết định hoãn phiên toà
Điều 208 được quy định lại cho phù hợp với Điều 199 mới sửa đổi và việc bãi bỏ Điều 200, Điều 201 và Điều 203.
3.4. Điều 234 về phát biểu của Kiểm sát viên
Điều 234 BLTTDS năm 2004 quy định “Trong trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, thì Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án”.
Nay, Điều 234 được sửa đổi, bổ sung theo tinh thần xác định rõ nội dung phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toàdân sự về “… việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án”.
4. Chương XVI – Chuẩn bị xét xử phúc thẩm
Sửa đổi, bổ sung các Điều 257, 260, 262 như sau:
4.1. Điều 257 về thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm
Sửa đổi, bổ sung quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.
4.2. Điều 260 về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
Điều 260 BLTTDS năm 2004 quy định: Toà án cấp phúc thẩm quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc một phần vụ án trong trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị. Nhưng trong thực tế có nhiều trường hợp người kháng cáo chỉ rút một phần kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị thì xử lý như thế nào?
Về thẩm quyền ký quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm: Điều 260 cũng chưa quy định rõ ai là người ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, trường hợp nào thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà ra quyết định, trường hợp nào Hội đồng xét xử ra quyết định, nhất là người kháng cáo rút kháng cáo Viện kiểm sát rút kháng nghị trong giai đoạn sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến trước khi mở phiên toà phúc thẩm. Vì vậy, Điều 260 đã được sửa đổi bổ sung như sau:
- Trong trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị.
+ Nếu trước khi Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
+ Nếu sau khi Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
- Trong trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định về việc người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị và quyết định đình chỉ xét xử phần kháng cáo, kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm.
4.3. Điều 262 về chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu
Điều 262 BLTTDS năm 2004 quy định: Sau khi thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu.
Nay, Điều 262 được sửa đổi, bổ sung theo đó Toà án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu, sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
5. Chương XVII – Thủ tục xét xử phúc thẩm
Luật sửa đổi các Điều 264, 266, 271, 275 và 277 như sau:
5.1. Điều 264 về những người tham gia phiên toà phúc thẩm
Theo khoản 2 Điều 264 BLTTDS năm 2004 quy định “Kiểm sát viên tham gia phiên toà phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị, hoặc đã có tham gia phiên toà sơ thẩm”.
Nay, khoản 2 Điều 264 được sửa là “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm”. Hay nói một cách khác, các phiên toà dân sự phúc thẩm đều phải có Viện kiểm sát tham gia, nếu vắng mặt Viện kiểm sát thì phải hoãn phiên toà.
5.2. Điều 266 về hoãn phiên toà phúc thẩm
Theo điều 266 BLTTDS năm 2004 thì phải hoãn phiên toà phúc thẩm trong những trường hợp:
- Trường hợp Kiểm sát viên phải tham gia phiên toà vắng mặt thì phải hoãn phiên toà;
- Người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Toà án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt;
- Người tham gia tố tụng khác không phải là người kháng cáo vắng mặt tại phiên toà thì việc hoãn phiên toà hay vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định như sơ thẩm;
 Quy định sửa đổi, bổ sung như sau:
- Kiểm sát viên tham gia phiên toà vắng mặt thì phải hoãn phiên toà.
- Người kháng cáo, người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt thì phải hoãn phiên toà phúc thẩm. Trường hợp người có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì Toà án tiến hành phiên toàphúc thẩm xét xử vắng mặt họ.
- Trường hợp triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì giải quyết như sau:
+ Người kháng cáo, người đại diện theo pháp luật vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên Toà phúc thẩm và cũng không có yêu cầu xin xét xử vắng mặt thì coi như từ bỏ việc kháng cáo, HĐXX phúc thẩm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của người kháng cáo ấy (nếu vụ án còn có người khác kháng cáo và người đó có mặt tại phiên Toà thì sẽ xét xử đối với việc kháng cáo của họ).
+ Người không kháng cáo nhưng có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo vắng mặt mà không có người đại diện tham gia thì xét xử phúc thẩm vắng mặt họ.
+ Người làm chứng:
* Trong trường hợp người làm chứng vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai trực tiếp với Toà án hoặc gửi lời khai cho Toà án thì chủ toạ phiên toà công bố lời khai đó. Trường hợp người làm chứng vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử;
* Trường hợp người làm chứng vắng mặt tại phiên toà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc xét xử thì có thể bị dẫn giải đến phiên toà theo quyết định của Hội đồng xét xử.
+ Người giám định: Trường hợp người giám định vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử.
+ Người phiên dịch: Trường hợp người phiên dịch vắng mặt mà không có người khác thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà, trừ trường hợp đương sự vẫn yêu cầu tiến hành xét xử.
5.3. Điều 271 về nghe lời trình bày của đương sự, Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm
Điều 271 được sửa đổi lại rõ ràng, dễ hiểu hơn.
5.4. Điều 275 về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
Theo quy định tại Điều 275 BLTTDS năm 2004 Hội đồng xét xử phúc thẩm có các quyền sau đây:
- Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
- Sửa bản án sơ thẩm;
- Huỷ bản án sơ thẩm, và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án;
- Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Trong thực tế có rất nhiều vụ án dân sự khi xét xử trong một bản án Hội đồng xét xử sơ thẩm đã quyết định nhiều vấn đề, trong đó có những vấn đề tuyên xử đúng, có những vấn đề khi xét xử phúc thẩm thấy sai mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, nên cần phải huỷ, nhưng không cần thiết huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm, chỉ cầnhuỷ những phần xét xử sai để xét xử sơ thẩm lại là đủ. Cho nên vừa qua đã có nhiều vụ án Toà án cấp phúc thẩm đã tuyên huỷ những phần bản án sơ thẩm xét cần thiết phải huỷ còn những phần khác của bản án cấp sơ thẩm mà Toà án cấp phúc thẩm xét thấy cần giữ nguyên thì đã tuyên giữ nguyên như án sơ thẩm.
Vì vậy, khoản 3 Điều 275 bổ sung thêm thẩm quyền của cấp phúc thẩm là “hủy một phần bản án sơ thẩm”.
5.5. Điều 277 về huỷ bản án sơ thẩm, huỷ một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. Tuy nhiên chưa quy định Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án trong thời gian bao lâu kể từ khi nhận được hồ sơ vụ án.
Điều 277 được sửa đổi lại cho phù hợp với Điều 275 BLTTDS. 
5.6. Bổ sung Điều 273a về phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm
Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm”.
6. Chương XVIII – Thủ tục giám đốc thẩm
Sửa đổi, bổ sung các Điều 284, 288, 298, 299 như sau:
6.1. Điều 284 về phát hiện bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm 
Điều 284 BLTTDS năm 2004 quy định:Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, Toà án, Viện kiểm sát có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị. Không quy định thời hạn gửi thông báo đến người có thẩm quyền kháng nghị trong thời gian bao lâu.
Hiện nay, Điều 284 được sửa đổi, bổ sung như sau:
- Đối với đương sự:
+ Nếu phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với những người có quyền kháng nghị để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;
+ Thời hạn đề nghị giám đốc thẩm của đương sự là một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
Việc quy định đương sự gửi đơn đề nghị giám đốc thẩm trong thời hạn một năm là nhằm để nâng cao trách nhiệm và quyền định đoạt của đương sự trong việc có đề nghị giám đốc thẩm hay không? Nhằm khắc phục những khó khăn trong việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm thời gian qua (do luật chưa quy định thời hạn nộp đơn đề nghị giám đốc thẩm nên có nhiều trường hợp đương sự đơn gửi đến người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm khi bản án hoặc quyết định gần hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nên giải quyết rất khó khăn).
- Đối với Toà án, Viện kiểm sát hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người có quyền kháng nghị.
6.2. Điều 288 về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Điều 288 BLTTDS năm 2004 quy định thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn ba năm kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
Nay, Điều 288 được sửa đổi, bổ sung như sau:
- Thời hạn kháng nghị nói chung vẫn là 03 năm,
- Thời hạn kháng nghị 5 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, trong trường hợp:
+ Đương sự đã có đơn đề nghị trong thời hạn 1 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, sau khi hết thời hạn kháng nghị (hết 3 năm kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật) đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;
+ Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 283 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.
6.3. Sửa đổi Điều 297 về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm
Bổ sung một số từ cho rõ nghĩa.
6.4. Điều 299 về huỷ một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại
Sửa đổi bổ sung nhằm nói rõ Giám đốc thẩm có quyền huỷ một phần hoặc toàn bộ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật (Điều 297 BLTTDS năm 2004 chỉ nói huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật…)
 6.5. Bổ sung các Điều 284a và 284b
6.5.1. Bổ sung điều 284a quy định về đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:
- Đơn có các nội dung chính sau đây:
+ Ngày, tháng, năm làm đơn đề nghị;
+ Tên, địa chỉ của người đề nghị;
+ Tên bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm;
+ Lý do đề nghị, yêu cầu của người đề nghị;
+ Người đề nghị là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; người đề nghị là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu và phần cuối đơn.
- Người đề nghị phải gửi kèm theo đơn bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho người yêu cầu của mình là có căn cứ.
- Đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ được gửi cho người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
6.5.2. Bổ sung Điều 284b quy định về thủ tục nhận và xem xét đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:
- Toà án, Viện kiểm sát nhận đơn đề nghị do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án, Viện kiểm sát hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Ngày gửi đơn được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Toà án, Viện kiểm sát hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi.
- Toà án, Viện kiểm sát nhận đơn đề nghị phải cấp giấy xác nhận đã nhận đơn cho đương sự.
- Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có trách nhiệm phân công cán bộ tiến hành nghiên cứu đơn, hồ sơ vụ án, báo cáo người có quyền kháng nghị xem xét, quyết định. Trường hợp không kháng nghị thì thông báo bằng văn bản cho đương sự biết.
7. Chương XIXa - Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Đây là chương mới bổ sung, chương này gồm 2 điều là Điều 310a và Điều 310b, việc bổ sung để khắc phục những trường hợp Quyết định của Hội đồng thẩm phán có sai lầm phạm nghiêm trọng, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước của tổ chức, của cá nhân hoặc sau khi Hội đồng thẩm phán xét xử xong mới phát hiện những tình tiết quan trọng mới mà trước đây cả HĐTP TANDTC, đương sư không biết… nhằm bảo đảm các bản án, quyết định của Toà án đều đúng đắn, thực hiện quan điểm “sai phải sửa”.
Tuy nhiên theo như khoản 1 Điều 21 Luật Tổ chức Toà án đã quy định:
“1. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và là cơ quan hướng dẫn các Toà án áp dụng thống nhất pháp luật…”
Vì vậy việc xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải theo một thủ tục đặc biệt không phải thủ tục giám đốc thẩm thông thường.
7.1. Điều 310a về yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, được quy định như sau:
- Điều kiện để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán khi có một trong 2 dấu hiệu sau đây:
+ Xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
+ Phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Toàán nhân dân tối cao, đương sự không biết được khi ra quyết định đó.
- Phải có yêu cầu, kiến nghị, hoặc đề nghị của:
+ Yêu cầu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
+ Kiến nghị của Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội;
+ Kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
- Khi có kiến nghị của Uỷ ban tư pháp của Quốc hội hay của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân tối cao phát hiện vi phạm, tình tiết mới thì giải quyết như sau:
+ Chánh án Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
+ Hội đồng Thẩm phán TANDTC Xem xét báo cáo của Chánh án:
Nếu nhất trí với kiến nghị của Uỷ ban tư pháp, kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC hoặc đề nghị của Chánh án TANDTC thì Hội đồng Thẩm phán ra quyết định giao Chánh án TANDTC tổ chức nghiên cứu hồ sơ vụ án, sau đó báo cáo Hội đồng Thẩm phán xem xét, quyết định.
Nếu không nhất trí với kiến nghị, đề nghị thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị phải có sự tham dự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
7.2. Điều 310b về Thủ tục và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được quy định như sau:
- Nghiên cứu hồ sơ, xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ:
+ Sau khi Hội đồng Thẩm phán ra quyết định giao Chánh án TANDTC tổ chức nghiên cứu hồ sơ vụ án hoặc sau khi có yêu cầu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội nghiên cứu hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét;
+ Thời gian nghiên cứu hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ là 4 tháng.
- Thành phần phiên hợp Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:
+ Thành viên Hội đồng thẩm phán;
+ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.         
+ Trường hợp xét thấy cần thiết, Toà án nhân dân tối cao có thể mời cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến tham dự phiên họp.
- Trình tự phiên hợp:
+ Chánh án Toà án nhân dân tối cao báo cáo;
+ Ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Ý kiến của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan được mời tham dự, (nếu có).
- Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ra quyết định huỷ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; tuỳ từng trường hợp mà quyết định như sau:
+ Huỷ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung vụ án;
+ Huỷ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Toà án nhân dân tối cao có quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị huỷ do lỗi vô ý hoặc cố ý và gây thiệt hại cho đương sự hoặc xác định trách nhiệm bồi hoàn giá trị tài sản theo quy định của pháp luật;
+ Huỷ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật để giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật;
- Quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành.
8. Chương XX - Quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự
8.1. Luật sửa đổi các điều: 311 và 314 như sau:
8.1.1. Điều 311 về phạm vi áp dụng
Sửa đổi cho phù hợp với khoản 7 và 8 của Điều 26 sửa đổi.
8.1.2. Điều 314 về thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự
Điều 314 được sửa đổi bổ sung như sau:
- Tại phần khai mạc phiên họp Thẩm phán phải giải thích về quyền và nghĩa vụ của người tham gia phiên họp;
- Nếu phiên họp có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì người đó trình bày về những yêu cầu của người yêu cầu hoặc những vấn đề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
8.2. Bổ sung Điều 313a về quyết định việc thay đổi người tiến hành tố tụng khi giải quyết việc dân sự
- Trước khi mở phiên họp, việc thay đổi và cử Thẩm phán, Thư ký Toà án do Chánh án của Toà án đang giải quyết việc dân sự đó quyết định; nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án của Toà án đang giải quyết việc dân sự đó thì việc thay đổi do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định;
- Việc thay đổi Thẩm phán tại phiên họp giải quyết việc dân sự được thực hiện như sau:
+ Nếu việc dân sự do một Thẩm phán giải quyết thì việc thay đổi Thẩm phán do Chánh án của Toà án đang giải quyết việc dân sự đó quyết định;       
+ Nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án của Toà án đang giải quyết việc dân sự đó thì việc thay đổi do Chánh ánToà án cấp trên trực tiếp quyết định;
- Trường hợp việc dân sự do Hội đồng giải quyết việc dân sự gồm ba Thẩm phán giải quyết thì việc thay đổi thành viên Hội đồng do Hội đồng giải quyết việc dân sự quyết định;
- Việc thay đổi Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì việc thay đổi do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.
9. Chương XXIV - Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết
Bổ sung các Điều 339a, 339b và 339c như sau:
9.1. Điều 339a quy định về đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng viên vô hiệu như sau:  
- Người có quyền yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu:
+ Công chứng viên đã thực hiện việc công chứng;
+ Người yêu cầu công chứng;
+ Người làm chứng;
+ Người có quyền, lợi ích liên quan;
+ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền;
- Đơn yêu cầu Toà án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu phải có các nội dung như đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự quy định tại khoản 2, Điều 312 BLTTDS.
- Gửi kèm theo đơn yêu cầu Toà án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu là các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu là có căn cứ và hợp pháp.
9.2.Điều 339b quy định về chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu như sau:
- Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu là ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn đó, Toà án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
- Sau khi thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, Toà án có thẩm quyền thông báo ngay cho Phòng công chứng, Văn phòng công chứng hoặc Công chứng viên đã thực hiện việc công chứng, người yêu cầu công chứng, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Viện kiểm sát cùng cấp.
- Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.
- Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Toà án phải mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
9.3. Điều 339c quy định về quyết định tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu như sau:
- Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
- Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, trong quyết định này Toà án phải quyết định về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu theo quy định của pháp luật.
10. Chương XXV - Thủ tục giải quyết các việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam
Sửa đổi, bổ sung Điều 340 về những việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án.
Theo Điều 340 BLTTDS năm 2004 quy định những việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bao gồm:
- Chỉ định, thay đổi Trọng tài viên;
- Áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Huỷ quyết định trọng tài;
- Các việc dân sự khác mà pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam có quy định.
Nay bổ sung thêm những việc liên quan đến trọng tài bao gồm:
- Giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thoả thuận trọng tài vô hiệu, thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài;      
- Thu thập chứng cứ;
- Triệu tập người làm chứng;
- Đăng ký phán quyết trọng tài.
11. Chương XXX - Quy định chung về thi hành bản án, quyết định của Toà án.
11.1. Sửa đổi, bổ sung Điều 375 về những bản án, quyết định của Toà án được thi hành. Bổ sung thêm quyết định theo thủ tục đặc biệt của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định tại Điều 310b.
11.2. Luật bãi bỏ các điều: Điều 376 về căn cứ để đưa ra thi hành bản án, quyết định của Toà án; Điều 377 về quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Toà án; Điều 378 về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án; Điều 379 về kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Toà án. Những nội dung này đã được Luật thi hành án dân sự điều chỉnh.
12. Chương XXXI - Thủ tục thi hành bản án, quyết định của Toà án
Theo điều 383 về thời hiệu yêu cầu thi hành bản án, Trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành bản án, quyết định đó. Nội dung này đã được Luật thi hành án dân sự năm 2008 điều chỉnh và nội dung điều chỉnh khác hơn vì vậy bỏ điều 383.
Điều 30 luật thi hành án quy định
Điều 30. Thời hiệu yêu cầu thi hành án
1. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
2. Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.
3. Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.


Thạc sỹ Tống Anh Hào
Nguồn: Phó Chánh án TAND tối cao

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

100 CÂU HỎI VỀ TRỌNG TÀI QUỐC TẾ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ HỒNG KÔNG

Vấn đề có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bổ nhiệm mới Chánh Tòa Hành chính, Trưởng, Phó phòng Tồ chức cán bộ và Phòng giám đốc kiểm tra