Một số vấn đề áp dụng Điều 47 Bộ Luật hình sự khi quyết định hình phạt tù đối với người phạm tội

Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì: “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”. Thực tiễn áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự gần 10 năm qua cho thấy, nói chung các Toà án đã áp dụng đúng nội Điều 47 Bộ luật hình sự và các hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao, khắc phục được tình trạng quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của của khung hình phạt một cách tuỳ tiện. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự cũng nẩy sinh một số vấn đề vướng mắc; một số Thẩm phán hiểu không đầy đủ các quy định của Điều 47 Bộ luật hình sự và sự liên quan giữa Điều 47 với các điều luật khác quy định trong Bộ luật hình sự như: áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội; áp dụng hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, nên khi gặp các trường hợp này, các Thẩm phán đã lúng túng không biết áp dụng như thế nào. Một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành cũng đã đề cập đến việc áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự với các quan điểm khác nhau. Để góp phần vào việc áp dụng thống nhất pháp luật mà cụ thể là việc áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, chúng tôi xin trao đổi một số vấn đề sau:

Trước hết cần tìm hiểu hoàn cảnh ra đời, sự cần thiết của việc nhà làm luật quy định Điều 47 trong Bộ luật hình sự, đồng thời phải hiểu rõ nội dung của Điều 47 và mối liên quan giữa Điều 47 với các điều luật khác trong Bộ luật hình sự, thì việc áp dụng Điều 47 mới báo đảm đúng tinh thần của nhà làm luật.
Như chúng ta đã biết, Bộ luật hình sự năm 1985 cũng quy định trường hợp quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất (khoản 3 Điều 38). Tuy nhiên, nội dung của khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định: “khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà Điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn”, mà chưa quy định cụ thể, rõ ràng như Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999, nên thực tiễn xét xử, nhiều Toà án áp dụng khoản 3 Điều 38 không đúng với tinh thần của nhà làm luật; có nhiều trường hợp không nêu được tình tiết giảm nhẹ nhưng vẫn áp dụng khoản 3 Điều 38; có trường hợp Toà án chỉ nhận định một cách chung chung, rồi áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự để xử phạt người bị kết án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, thậm chí có trường hợp điều luật có 4 khung hình phạt nhưng Toà án đã chuyển từ khung hình phạt nặng nhất có mức hình phạt chung thân hoặc tử hình (khoản 4) xuống khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật có mức hình phạt từ 1 năm đến 3 năm (khoản 1). Để khắc phục tình trạng trên, Bộ luật hình sự năm 1999 dành riêng một điều (Điều 47) quy định trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, đồng thời cũng quy định những điều kiện khi quyết định hình phạt hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, những điều kiện đó là: 
- Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Diều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định. Khung hình phạt mà điều luật đã quy định là khung hình phạt mà Toà án áp dụng đối với bị cáo, chứ không phải là khung hình phạt bất kỳ. Ví dụ: Phạm Hồng S bị kết án về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. Nhưng bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ giá trị tài sản đã trộm cắp cho người bị hại; thành khẩn khai báo; tích cực giúp đỡ cơ quan điều tra phát hiện những đồng phạm khác. Như vậy, bị cáo S có 3 tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, p và q khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Toà án đã áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt Phạm Hồng S năm năm tù là mức hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật (từ hai năm đến bảy năm).
Điều luật quy định “khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46”. Đây là quy định “cứng” buộc Toà án phải xác định người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự và được Hội đồng xét xử xác định cụ thể và ghi rõ trong bản án thì mới được áp dụng Điều 47. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự quy định các tình tiết giảm nhẹ từ điểm a đến điểm s, nhưng không phải mỗi điểm chỉ quy định một tình tiết giảm nhẹ mà có điểm quy định hai, ba hoặc bốn tình tiết giảm nhẹ. Ví dụ: điểm s khoản 1 Điều 46 quy định 4 tình tiết giảm nhẹ, đó là: người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất; người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong chiến đấu; người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong học tập và người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong công tác. Do đó, khi xác định tình tiết giảm nhẹ trong trường hợp một điểm của khoản 1 Điều 46 quy định nhiều tình tiết giảm nhẹ thì phải nêu rõ bị cáo có tình tiết giảm nhẹ nào chứ không nếu chung chung như điều luật liệt kê; nếu bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định trong cùng một điểm thì cũng phải nêu rõ trong bản án. Ví dụ: bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, đó là: “người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất (đã được tặng Huân chương lao động hạng ba) và “người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong chiến đấu” (đã được tặng Huân chương chiến công hạng ba).
Thực tiễn xét xử còn có nhiều trường hợp, các Toà án buộc phải “xé rào” áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt trong khi bị cáo không có từ 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, thậm chí áp dụng mức hình phạt dưới cả mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn. Tình trạng “xé rào” này không cỉ có Toà án mà đối với cả Kiểm sát viên tham gia phiên toà, trong lời luận tội cũng đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt rất thấp và được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tình trạng “xé rào” này lại phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, vai trò của bị cáo trong vụ án có đồng phạm và được dư luận đồng tình. Trong các hội nghị sơ kết cũng như tổng kết công tác xét xử hoặc trong các cuộc hội thảo khoa học về việc sử dụng Bộ luật hình sự đã có nhiều đại biểu cho rằng, quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự là quá chặt chẽ, không phù hợp với một số trường hợp và đề nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng: “khi có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ và không có tình tiết tăng nặng thì Toà án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự” chứ không nhất thiết phải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Chúng tôi cũng chia sẻ với ý ý kiến này, nhưng vì điều luật đã quy định nên không thể hướng dẫn được mà phải sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu sửa đổi, bổ sung thì chúng tôi lại đề nghị bổ sung thêm một số tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự mà Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã hướng vào khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự và giữ nguyên quy định “cứng” tại Điều 47 Bộ luật hình sự.
Mặc dù không có quy định hoặc hướng dẫn nào khi áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phải lấy tình tiết giảm nhẹ “trừ đi” tình tiết tăng nặng, nếu còn 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên mới được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, nghiên cứu căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại Điều 45 Bộ luật hình sự thì “khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Toà án áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự cũng là việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội nên không thể không căn cứ vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, theo chúng tôi, nếu người phạm tội có cả tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ thì lấy số lượng tình tiết giảm nhẹ trừ đi số lượng tình tiết tăng nặng mà còn từ 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên thì hãy nghĩ đến việc áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự. Quan điểm này cũng phù hợp với quy định của Điều 47 Bộ luật hình sự là chỉ có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà Điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn chứ không nhất thiết (bắt buộc) phải quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà Điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
- Hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định phải là hình phạt nằm trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Ví dụ: Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự là khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự và khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự là khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp đối với Phạm Hồng S nêu ở trên, hình phạt năm năm tù là hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự, nhưng là hình phạt nằm trong khoản 2 Điều 137 Bộ luật hình sự là khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khung hình phạt tại khoản 3 Điều 137 Bộ luật hình sự.
- Nếu khung hình phạt mà Toà án áp dụng đối với bị cáo là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Ví dụ: Lê Thị Tuyết N bị kết án về tội “chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 198 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù và là khung hình phạt nhẹ nhất của Điều 198 Bộ luật hình sự, nhưng sau khi phạm tội N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; N là phụ nữ có thai; là người có thành tích xuất sắc trong chiến đấu được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba, nên Toà án áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt N một năm tù là hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo khoản 1 Điều 198 Bộ luật hình sự.
- Nếu điều luật mà Toà án áp dụng đối với bị cáo chỉ có một khung hình phạt, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Ví dụ: Bùi Văn T bị kết án về tội “loạn luân” quy định tại Điều 150 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ sáu tháng đến năm năm tù và là điều luật chỉ có một khung hình phạt, nhưng Bùi Văn T là người có bệnh hạn chế khả năng nhận thức hành vi của mình do bị thương vào đầu trong chiến đấu ở chiến trường B; Bùi Văn T là thương binh hạng 3/4, trong chiến đấu T được tặng Huân chương chiến công hạng hai, Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng hai. Như vậy, Bùi Văn T phạm tội có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm n và điểm s khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, nên Toà án đã áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, không áp dụng hình phạt tù đối với Bùi Văn T mà chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ và phạt Bùi Văn T một năm cải tạo không giam giữ.
Phạm vi áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự là đối với tất cả các bị cáo không phân biệt bị cáo là người đãthành niên (từ đủ 18 tuổi) hay bị cáo là người chưa thành niên (từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi); bị cáo thực hiện tội phạm ở giai đoạn nào (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hay tội phạm đã hoàn thành). Tuy nhiên, khi áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự cần xem xét đến mối liên hệ giữa Điều 47 với các điều luật khác quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự như: quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội (Điều 74); quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 52).
Đối với người chưa thành niên phạm tội.
Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, ngoài các quy định của Bộ luật hình sự đối với người đã thành niên phạm tội, thì Toà án còn phải áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại Chương X (từ Điều 68 đến Điều 77). Trường hợp áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên cũng như đối với người đã thành niên, phải đảm bảo các điều kiện mà Điều 47 đã quy định. Khi xác định mức hình phạt tù cụ thể đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội như đối với trường hợp người phạm tội là người đã thành niên10, tức là yếu tố “chưa thành niên” của bị cáo tạm thờichưa xem xét đến. Ví dụ: Nguyễn Văn A 17 tuổi 3 tháng 20 ngày, phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự. A có 4 tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b,i p và q khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng. A được Toà án áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, tức là A được áp dụng hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự (từ hai năm đến bảy năm tù). Giả thiết, nêu A là người đã thành niên thì Toà án sẽ phạt 2 năm tù, nhưng A là người chưa thành niên ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nên theo quy định tại Điều 74 Bộ luật hình sự thì mức hình phạt của A chỉ bằng 3/4 mức hình phạt đối với người đã thành niên. Do đó mức hình phạt thực tế mà Toà án áp dụng đối với Nguyễn Văn A trường hợp cụ thể này là 1 năm 6 tháng tù (2×3:4). Nếu chỉ căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự thì hình phạt 1 năm 6 tháng tù mà Toà án quyết định đối với Nguyễn Văn A là không đúng quy định của Điều 47 (dưới 2 năm tù-mức thấp nhất của khung hình phạt nhẹ hơn liền kề), nhưng vì A là người chưa thành niên nên mức hình phạt này không vi phạm Điều 47 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp này, Toà án vẫn phải áp dụng cả Điều 47 và Điều 74 Bộ luật hình sự mới đầy đủ.
Thực tiễn xét xử do không nắm chắc quy định của Điều 47 Bộ luật hình sự và các điều luật có liên quan nên đã có trường hợp Toà án quyết định hình phạt đối với bị cáo là người chưa thành niên dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, bị Viện kiểm sát kháng nghị. Khi xét xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát vì cho rằng Toà án đã vi phạm Điều 47 Bộ luật hình sự. Việc kháng nghị của Viện kiểm sát và việc chấp nhận kháng nghị như vậy rõ ràng là chưa nắm chắc các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt nói chung và việc áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự nói riêng.
Trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội không được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự nhưng Toà án vẫn có thể áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nếu họ có đủ các điều kiện quy định tại Điều 74 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Bùi Huy T 15 tuổi 8 tháng, phạm tội cướp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. T chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Giả thiết Bùi Huy T là người đã thành niên thì mức hình phạt mà Toà án quyết định đối với T là 10 năm, nhưng vì T mới 15 tuổi 8 tháng, nên theo quy định tại Điều 74 Bộ luật hình sự thì T chỉ bị phạt 5 năm tù (1/2 mức hình phạt mà người đã thành niên phải chịu). Mặc dù T không được áp dụng Điều 47 nhưng không vì thế mà cho rằng Toà án vi phạm Điều 47 Bộ luật hình sự.
Đối với người phạm tội ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
Theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự thì, đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định là hình phạt tù có thời hạn thì mức hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội là không quá một phần hai (1/2) mức phạt tù mà điều luật quy định, còn đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư (3/4)  mức phạt tù mà điều luật quy định.
Như vậy, việc quyết định hình phạt tù đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt cũng là trường hợp đặc biệt như trường hợp quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội. Qua công tác giám đốc việc xét xử, chúng tôi thấy rất ít các bản án áp dụng Điều 52 Bộ luật hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
Nhân đây, chúng tôi thiết nghĩ cũng cần phải nêu lại một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt để tham khảo, trước khi nói về việc áp dụng Điều 52 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt tù đối với người phạm tội.
Về chuẩn bị phạm tội
Theo Điều 17 Bộ luật hình sự thì, chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm, nhưng ở giai đoạn này người phạm tội chưa thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm, tức là chưa có hành vi xâm phạm đến đối tượng tác động. Ví dụ: A chuẩn bị kìm cộng lực, vam phá khoá định đến nhà H cắt phá khoá trộm cắp tài sản của gia đình H, nhưng bị em của A phát hiện nên A không thực hiện được hành vi trộm cắp tại nhà H.
Hành vi chuẩn bị phạm tội thường được thể hiện dưới các dạng như sau:
- Chuẩn bị kế hoạch tội phạm như: bàn bạc, phân công trách nhiệm cho từng người, kế hoạch tiêu thụ tài sản hay kế hoạch che giấu tội phạm… Dạng chuẩn bị phạm tội này thương xảy ra đối với những tội phạm được thực hiện có đồng phạm hoặc có tổ chức. Tuy nhiên cũng có trường hợp tội phạm chỉ do một người thực hiện vẫn có sự chuẩn bị kế hoạch tội phạm. Ví dụ: A có ý định đầu độc B, tự A đã vạch ra một kế hoạch như mua thuốc độc ở đâu, bỏ thuốc độc vào nước cho B uống như thế nào, sau khi B bị trúng độc thì làm thế nào để che giấu được tội phạm v.v…
- Thăm dò hoặc tìm địa điểm phạm tội, dạng chuẩn bị này chủ yếu đối với các tội xâm phạm sở hữu hoặc xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm của công dân. Ví dụ: A muốn trộm cắp nhà B, nên A đã nhiều lần đến nhà B thăm dò xem gia định B thường vắng nhà vào giờ nào, quy luật sịnh hoạt của gia định B ra sao để tiến hành trộm cắp.
- Chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội như: Chuẩn bị xe máy để đi cướp giật, chuẩn bị dao để giết người, chuẩn bị thuốc nổ để hủi hoại tài sản, chuẩn bị xăng để đốt nhà, chuẩn thuốc mê để làm cho người có tài sản uống nhằm chiếm đoạt tài sản của họ, chuẩn bị giấy tờ giả mạo để lừa đảo.v.v…
- Loại trừ trước những trở ngại khách quan để thực hiện tội phạm được thuận lợi dễ dàng như: Ngắt cầu giao điện để đêm đột nhập vào kho trộm tài sản, cho các con đi nghỉ mát để ở nhà giết vợ được dễ dàng v.v…
Như vậy, chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo ra tiền đề (điều kiện) cần thiết cho việc thực hiện tội phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội có một ý nghĩa rất quan trọng đến kết quả của việc thực hiện tội phạm, chuẩn bị càng chu đáo công phu bao nhiêu thì kết quả của việc thực hiện tội phạm càng đạt kết quả bấy nhiêu. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội được Nhà nước đánh giá và phân biệt thành hai loại: Loại hành vi chuẩn bị phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và loại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc dù cả hai loại đều chưa gây ra hậu quả, nhưng tính chất nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội có khác nhau và sự khác nhau đó lại không phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi chuẩn bị mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm mà người đó định thực hiện.
Luật hình sự nước ta chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội mà tội phạm đó là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Nếu theo quy định này thì người chuẩn bị phạm tội do vô ý vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, về lý luận thì chỉ có tội phạm được thực hiện do cố ý (cố ý tực tiếp) thì mới có giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do đó sẽ không có hành vi chuẩn bị phạm tội mà tội phạm đó được thực hiện do vô ý.
Theo quy định của Bộ luật hình sự, thì có tội phạm quy định trong một điều luật chỉ là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng, nên vấn đề trách nhiệm hình sự của người có hành vi chuẩn bị phạm tội không có gì khó khăn. Tuy nhiên, trong nhiều điều luật của Bộ luật hình sự nhà làm luật quy định có cả tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biẹt nghiêm trọng thì việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong một số trường hợp khó xác định. Ví dụ: Một người chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài, vì chưa thực hiên hành vi tội phạm nên chưa biết hậu quả do hành vi tội phạm xảy ra như thế nào, tài sản mà người phạm tội chiếm đoạt có giá trị lớn hay không để xác định họ tội phạm theo khoản 1, khoản 2, khoản 3 hay khoản 4 của Điều 138 Bộ luật hình sự. Nếu trong quá trình điều tra, người phạm tội nhận sẽ trộm cắp tài sản có giá trị lớn như xe ô-tô thì có thể tính ra được tài sản đó có giá trị lớn để xác định họ tội phạm theo khoản 3 hoặc khoản 4 của Điều 138, nhưng nếu người phạm tội chỉ nhận: gặp gì cũng lấy hoặc không chứng minh được người phạm tội định lâý tài sản có giá trị lớn thì theo nguyên tắc suy đoán có lợi cho người phạm tội họ được loại trừ trách nhiệm hình sự nếu như họ chỉ mới chuẩn bị phạm tội. Tương tự như vậy đối với tội cố ý gây thương tích, nếu người phạm tội không khẳng định mục đích của mình là gây thương tích rât nặng (có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên cho người bị hại hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự), hoặc không chứng minh là họ có mục đích gây thương tích rất nặng cho người bị hại, thì họ cũng đươc loại trừ trách nhiệm hình sự nếu họ mới chuẩn bị phạm tội.
Về phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội
Chỉ có các tội được thực hiện do cố ý thì mới có phạm tội chưa đạt. Điều luật không quy định hình thức cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp, nhưng căn cứ vào điều văn của điều luật quy định “không thực hiện được đến cùng“, tức là người phạm tội có mục đích thực hiện tội phạm đến cùng, nên họ mong muốn cho hậu quả xảy ra chứ không phải để mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó, phạm tội chưa đạt chỉ có thẻ xảy ra đối với trường hợp cố ý trực tiếp.
Khoa học pháp lý chia phạm tội chưa đạt thành hai loại: chưa đạt đã hoàn thành và chưa đạt chưa hoàn thành.
Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan, hậu quả đó đã không xảy ra (chưa đạt về hậu quả, hoàn thành về hành vi). Ví dụ: Một người có ý định giết người khác, đã dùng súng bắn ba phát vào nạn nhân và tin là nạn nhân đã chết nên bỏ đi, nhưng sau đó nạn nhân được cứu chữa nên không chết. Ở đây, người phạm tội đã hành động như ý muốn và tin là hậu quả sẽ xảy ra nhưng lại không xảy ra. Trường hợp này người phạm tội dừng lại mặc dù không còn gì ngăn cản nhưng cũng không được coi là tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm, vì người phạm tội đã thoả mãn với hành vi nhưng chưa thoả mãn về hậu quả.
 Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì nguyên nhân khách quan, chưa thực hiện hết các hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả không xảy ra (chưa đạt về hậu quả, chưa hoàn thành về hành vi). Ví dụ: một người có ý định dùng dao găm đâm nhiều nhát vào một người để tước đoạt tính mạng người đó, nhưng mới đâm được một nhát thì bị người khác giữ tay lại, không đâm tiếp được nữa, và nạn nhân không chết chỉ bị thương. Trường hợp này người phạm tội chưa đâm được như ý muốn, chưa tin vào hậu quả xảy ra và hậu quả cũng không xảy ra.
Trở lại vấn đề áp dụng Điều 52 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, cần chú ý: Cũng như đối với Điều 47 Bộ luật hình sự, việc áp dụng Điều 52 Bộ luật hình sự không chỉ đối với người đã thành niên phạm tội mà đối với cả người chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, việc áp dụng Điều 52 Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội Toà án còn phải chú ý đến các quy định tại tại Chương X (từ Điều 68 đến Điều 77) Bộ luật hình sự.
Việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội thuộc cả ba trường hợp quy định tại các Điều 47, 52 và 74 Bộ luật hình sự phức tạp hơn so với trường hợp chỉ thuộc một hoặc hai trường hợp quy định tại các Điều 47, 52 và 74 Bộ luật hình sự.
Về nguyên tắc, nếu một người phạm tội thuộc cả ba trường hợp quy định tại các Điều 47, 52 và 74 Bộ luật hình sự thì khi quyết định hình phạt Toà án phải xác định từng trường hợp sau đó mới quyết định một mức hình phạt cụ thể. Hình phạt cụ thể này có thể dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, và nếu một người hội tụ đủ cả ba trường hợp quy định tại các Điều 47, 52 và 74 Bộ luật hình sự thì hình phạt tù của họ thấp hơn so với người chỉ thuộc một hoặc hai trường hợp. Ví dụ: Vũ Tuấn Đ 17 tuổi 6 tháng phạm tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự nhưng ở giai đoạn chưa đạt (chưa lấy được tài sản); Đ có 3 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Giả thiết Toà án áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự đối với Đ thì trước hết, Toà án coi Đ là người đã thành niên phạm tội để xác định mức hình phạt cụ thể dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (Ví dụ: là 4 năm); sau đó căn cứ Điều 74 để xác định mức hình phạt “thật” là 3 năm (4×3:4=3) và cuối cùng là căn cứ vào Điều 52 Bộ luật hình sự để xác định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt là 2 năm 3 tháng (3×3:4=2,25).
Nếu người phạm tội chỉ thuộc trường hợp quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự, Toà án không áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, mà hình phạt đó dưới mức thấp nhất của khung hình phạt vẫn không bị coi là vi phạm. Trường hợp này cũng tương tự như trường hợp quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nhưng không được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự.
Như vậy, theo quy định của Bộ luật hình sự thì có hai trường hợp Toà án quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng không áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự vẫn không bị coi là vi phạm, đó là trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt hoặc đối với người chưa thành niên phạm tội.
Tuy nhiên, về lý luận, có vấn đề cần trao đổi, vì việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong trường hợp thuộc cả ba trường hợp quy định tại các Điều 47, 52 và 74 Bộ luật hình sự chưa được hướng dẫn, trong khi đó tại các Điều 52 và 74 Bộ luật hình sự chỉ quy định không quá một phần hai (1/2) hoặc không quá ba phần tư (3/4) mức hình phạt “mà điều luật quy định”, nếu hiểu một cách máy móc thì dù người phạm tội có thuộc cả ba trường hợp quy định tại các Điều 47, 52 và 74 Bộ luật hình sự thì mức hình phạt cũng không thấp hơn người phạm tội chỉ thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điều 47, 52 và 74 Bộ luật hình sự. Trường hợp đối với Vũ Tuấn Đ trong ví dụ nêu trên, nếu muốn xác định mức hình phạt cụ thể như vậy, thì Điều 52 phải quy định không quá một phần hai (1/2) hoặc không quá ba phần tư (3/4) mức hình phạt “mà người phạm tội đã hoàn thành phải chịu”, còn Điều 74 phải quy định không quá một phần hai (1/2) hoặc không quá ba phần tư (3/4) mức hình phạt “mà người đã thành niên phải chịu”. Có thể điều văn của điều luật chưa rõ ràng, nhưng theo chúng tôi thì một người phạm tội thuộc cả ba trường hợp quy định tại các Điều 47, 52 và 74 Bộ luật hình sự, mức hình phạt phải thấp hơn người phạm tội chỉ thuộc một hoặc hai trường hợp trên, có như vậy thì mới bảo đảm nguyên tắc công bằng. Chúng tôi hy vọng các cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn áp dụng các các Điều 47, 52 và 74 Bộ luật hình sự, còn về lâu dài khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 nhà làm luật sẽ quy định lại cho phù hợp hơn.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

100 CÂU HỎI VỀ TRỌNG TÀI QUỐC TẾ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ HỒNG KÔNG

Vấn đề có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bổ nhiệm mới Chánh Tòa Hành chính, Trưởng, Phó phòng Tồ chức cán bộ và Phòng giám đốc kiểm tra