Những vướng mắc khi áp dụng Điều 202 Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộcủa Bộ luật Hình sự






Điều 202 của BLHS quy định:
“1. Người nào điều khiển phương tiện GTĐB mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn  giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
 Thực tiễn xét xử ở các Toà án cho thấy, Điều 202 còn những vướng mắc sau:

1. Sử dụng xe máy chuyên dùng vi phạm quy định về an toàn GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác có thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 202 BLHS?
       Theo quy định tại Khoản 17, Điều 3 của Luật GTĐB năm 2008, phương tiện GTĐB gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ. Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ-moóc hoặc sơ-mi rơ-moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự. Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự. Còn xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh có tham gia GTĐB (Khoản 18, 19, 20 của Luật GTĐB năm 2008). Như vậy, theo Luật GTĐB, phương tiện GTĐB không bao gồm xe máy chuyên dùng.
        Trong khi đó, khoản 1, Điều 202 của BLHS quy định là tội phạm đối với người nào điều khiển phương tiện GTĐB mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác. Do sự khác nhau này, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tai nạn giao thông phát sinh một số vướng mắc liên quan đến người điều khiển xe chuyên dùng vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài sản của người khác.
        Trong thực tiễn, có hai quan điểm trái ngược nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu người điều khiển xe máy chuyên dùng gây tai nạn giao thông làm chết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội vô ý làm chết người (Điều 98, BLHS); nếu gây thương tích với tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108, BLHS). Truy cứu trách nhiệm hình sự theo các tội này bởi xe máy chuyên dùng là phương tiện chỉ được sử dụng vào các công việc cụ thể (thi công, phục vụ sản xuất nông nghiệp), không có chức năng vận tải người và hàng hoá. Vì vậy, Luật GTĐB không xem đây là phương tiện GTĐB. Do đó, nếu người điều khiển xe máy chuyên dùng gây chết người, gây thương tích nặng sẽ không bị truy cứu TNHS theo Điều 202.
        Quan điểm khác cho rằng, người điều khiển xe máy chuyên dùng cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về an toàn GTĐB. Nếu người điều khiển xe máy chuyên dùng vi phạm các quy định của pháp luật về an toàn GTĐB gây tai nạn cũng có thể bị truy cứu TNHS theo Điều 202.
        Theo chúng tôi, quan điểm thứ hai là hợp lý hơn cả. Bởi lẽ, bất kỳ phương tiện nào tham gia lưu thông trên đường bộ vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài sản của người khác thì đều phải chịu trách nhiệm về hành vi này. Nhưng nếu theo quy định của Khoản 3, Điều 17 của Luật GTĐB, đối chiếu với Điều 202 của BLHS, người điều khiển xe máy chuyên dùng khó thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 202 nếu gây tai nạn làm chết người hoặc gây thương tích nặng cho người khác.
        Để khắc phục bất cập này, chúng tôi cho rằng, khoản 3, Điều 17 của Luật GTĐB nên được sửa đổi thành:“Phương tiện GTĐB gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ, xe máy chuyên dùng”.
2. Tình tiết không có giấy phép lái xe hoặc bằng lái xe theo quy định
     Tình tiết này được quy định tại điểm a, Khoản 2, Điều 202. Tình tiết này khi áp dụng trên thực tế có một số trường hợp dẫn đến cách hiểu không thống nhất, áp dụng pháp luật rất khác nhau, cụ thể:
      Trường hợp thứ nhất, người điều khiển phương tiện GTĐB gây ra hậu quả chết người trong khi họ đang bị mất bằng lái xe (có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền) thì có trường hợp Toà án áp dụng tình tiết này đối với bị cáo, có trường hợp Toà án lại không áp dụng mà chỉ xét xử như người vi phạm theo khoản tương ứng mà điều luật quy định.
      Ví dụ, A bị mất giấy phép lái xe. Việc A mất giấy phép lái xe được cơ quan có thẩm quyền xác nhận và A đang chờ thi lại để được cấp giấy phép lái xe mới. Tuy nhiên, trong thời gian này, A lái xe mô tô có dung tích xi lanh 100 cm3 gây tai nạn giao thông làm chết B. Lỗi trong vụ tai nạn thuộc về A do chạy quá tốc độ quy định. Trong trường hợp này, có Toà án đã áp dụng điểm a, Khoản 2, Điều 202 đối với A, nhưng có Toà án lại đưa ra quan điểm là nên xét xử A theo Khoản 1 của Điều 202.
        Trường hợp thứ hai, một người đã được học tập trung tại trường đào tạo lái xe, đã thi sát hạch xong (đã đỗ), đang chờ cấp bằng lái nhưng đã điều khiển phương tiện tham gia giao thông gây hậu quả nghiêm trọng. Trong trường hợp này, có Toà án chấp nhận người này đã được phép lái xe, có Toà án cho rằng họ chưa được phép vì chưa có giấy phép lái xe.
      Theo Điều 59 của Luật GTĐB, thì căn cứ vào kiểu loại, công suất động cơ, tải trọng và công dụng của xe cơ giới, giấy phép lái xe được phân thành giấy phép lái xe không thời hạn và giấy phép lái xe có thời hạn. Người được cấp giấy phép lái xe Hạng B2, C, D, E và Hạng F phải được đào tạo tập trung tại cơ sở đào tạo và đạt kết quả kỳ thi sát hạch, trúng tuyển mới được cấp giấy phép lái xe đúng hạng. Trường hợp giấy phép lái xe có thời hạn, trước khi hết thời hạn sử dụng thì người lái xe phải đi khám sức khoẻ và làm các thủ tục theo quy định để được đổi giấy phép lái xe. Giấy phép lái xe có thể bị thu hồi có thời hạn hoặc thu hồi vĩnh viễn theo quy định của Chính phủ (Điều 61 của Luật GTĐB). Như vậy, về bản chất, giấy phép hoặc bằng lái xe là một văn bản của cơ quan có thẩm quyền cho phép một người có đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật.
       Như vậy, trong trường hợp người đang chờ cấp bằng lái nhưng đã điều khiển phương tiện tham gia giao thông gây hậu quả nghiêm trọng thì cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định rõ: tại thời điểm xảy ra thiệt hại, người điều khiển phương tiện GTĐB chưa được cấp giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định, nên họ không được lái xe.
       Trong trường hợp người điều khiển phương tiện tham gia GTĐB đã có giấy phép hoặc bằng lái xe nhưng giấy phép hoặc bằng lái xe đã bị mất, thì cơ quan tiến hành tố tụng phải xác minh họ có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định hay không để đưa ra những quyết định phù hợp với pháp luật.
       Để thống nhất trong áp dụng pháp luật, theo chúng tôi, chỉ áp dụng tình tiết không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định trong các trường hợp sau đây:
       + Không có (hoặc chưa được cấp) giấy phép hoặc bằng lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp đối với loại phương tiện đó;
       + Đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy phép hoặc bằng lái xe;
       + Điều khiển phương tiện tham gia GTĐB trong thời gian bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấm điều khiển phương tiện.
3. Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm
     Điểm c, Khoản 2, Điều 202 BLHS có quy định về tình tiết gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Tình tiết này chưa được giải thích rõ ràng nên việc áp dụng cũng có những tranh cãi khác nhau. Vì vậy, cần phải giải thích rõ như thế nào là bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Trên thực tế, có những trường hợp bỏ chạy vì lý do bị đe doạ đến tính mạng nhưng lại đến cơ quan công an gần nhất để khai báo, thì cũng là bỏ chạy nhưng không phải để trốn tránh trách nhiệm. Như vậy, tình tiết này cần được giải thích như sau: “Bỏ chạy vì lý do bị đe doạ đến tính mạng mà đến trình báo ngay với cơ quan công an nơi gần nhất; cung cấp thông tin xác thực về vụ tai nạn cho cơ quan công an, hoặc không đến trình báo ngay sau khi bỏ chạy nhưng chứng minh được có sự ảnh hưởng của yếu tố khách quan, thì không phải là để trốn tránh trách nhiệm”.
4. Lỗi trong tình tiết không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông
     Tình tiết không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông được quy định tại điểm d, Khoản 2, Điều 202 cũng gây khó khăn trong áp dụng. Cụm từ này đã đánh đồng giữa hành vi cố ý không chấp hành và vô ý không chấp hành. Hai hành vi này có ý chí chủ quan hoàn toàn trái ngược nhau, vì vậy trách nhiệm hình sự áp dụng cho chúng cũng phải khác nhau. Nếu đánh đồng trách nhiệm hình sự của hai hành vi này cùng vào điểm d, Khoản 2, Điều 202 là không phù hợp. Vì vậy, theo chúng tôi, đối với tình tiết không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông, chúng ta cần sửa đổi thành:
- Nếu cố ý không chấp hành sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm d, Khoản 2, Điều 202.
- Nếu vô ý không chấp hành thì sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1, Điều 202.
5. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người che giấu người tội phạm theo Điều 202
      Trên thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng gặp không ít khó khăn khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử đối với người phạm Tội vi phạm các quy định về điều khiển GTĐB. Theo Khoản 1, Điều 313, người nào không hứa hẹn trước mà che giấu một trong các tội phạm quy định tại Khoản 2, Điều 313 thì bị cho là phạm tội và phải chịu mức chế tài là cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
       Trong Khoản 2, Điều 313 không có quy định dẫn chiếu Điều 202, nên những người che giấu người thực hiện hành vi phạm tội được quy định tại Điều 202 sẽ không bị coi là tội phạm. Vì vậy, trên thực tế có trường hợp người điều khiển phương tiện GTĐB  gây tai nạn làm chết người rồi bỏ trốn và sau đó nhờ người khác nhận tội thay. Người nhận tội thay đã được người phạm tội mô tả lại chi tiết hành vi phạm tội nên các cơ quan tiến hành tố tụng khó thể phát hiện ra. Sự thật vụ án bị xuyên tạc. Trong khi đó, chúng ta cũng không thể xác định người nhận tội thay phạm Tội khai báo gian dối (Điều 307 của BLHS) vì không thỏa mãn yếu tố chủ thể. Nếu bỏ qua yếu tố oan, sai thì sự thật này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho người phạm tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện GTĐB thoát tội.
       Để hoàn thiện pháp luật hình sự, tạo cơ sở pháp lý truy cứu TNHS người nhận tội thay những người phạm Tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện GTĐB,  theo chúng tôi, Khoản 2, Điều 313 nên bổ sung trường hợp người che giấu người phạm tội theo Khoản 2, 3, Điều 202 cũng bị truy cứu TNHS. Có như vậy, tình trạng nhận tội thay đối với tội phạm này mới được ngăn chặn, hạn chế người phạm tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện GTĐB trốn tránh trách nhiệm.
TS. Phạm Văn Beo- Khoa Luật, ĐH Cần Thơ (www.nclp.org.vn)


Gây tai nạn chết người, tòa lúng túng khi định tội
Chỉ khi cơ quan tố tụng chỉ ra được hành vi của bị can, bị cáo vi phạm các quy tắc, quy định pháp luật cụ thể về giao thông thì mới xử lý họ về tội vi phạm giao thông tương ứng.
Hiện nay việc phân biệt giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ hoặc đường thủy với tội vô ý làm chết người đang gây nhiều lúng túng cho các tòa địa phương. Nhiều tòa đã phải xin ý kiến hướng dẫn nghiệp vụ của TAND Tối cao…
Thẩm phán Vũ Phi Long, Phó Chánh Tòa Hình sự TAND TP.HCM, kể lại vụ một người lái xe xúc cát đi trong đường nội bộ ra bãi khai thác cát. Vì đường vắng, tài xế chủ quan cho xe chạy nhanh, lại thiếu quan sát nên gây tai nạn làm một người dọn rác tử vong.
Tội gì?
Giải quyết vụ án, tòa địa phương rất lúng túng, không biết xử tài xế xe xúc cát theo tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202 BLHS) hay tội vô ý làm chết người (Điều 98 BLHS). Bởi lẽ người này lái xe gây tai nạn trên đường tự tạo, không thuộc hệ thống giao thông đường bộ.
Hiện nay ở các tòa khác cũng đang có sự lúng túng khi xác định tội danh trong các trường hợp tương tự. Điển hình là trường hợp Võ Văn Thịnh dùng thuyền không đảm bảo chất lượng chở người đi chơi trên một hồ sen ở Đắk Lắk. Do không cẩn thận, Thịnh làm thuyền lật gây chết người. Cơ quan tố tụng phải hỏi ý kiến cấp trên để xác định tội của Thịnh là vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy (Điều 212 BLHS) hay tội vô ý làm chết người.
Một trường hợp khác là vụ Phan Phước Lào sửa xe buýt xong thì chạy thử quá tốc độ mà nội quy bến xe quy định ngay trong bến xe, lại để nắp hầm máy nhô ra khỏi xe nên gây tai nạn chết người. Vào cuộc, cơ quan tố tụng xác định theo Điều 3 Luật Giao thông đường bộ thì xe buýt mà Lào điều khiển là phương tiện giao thông đường bộ, mặt khác bến xe nơi xảy ra tai nạn cũng thuộc kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Vì thế, tòa sơ thẩm kết luận Lào phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Tuy nhiên, bản án này sau đó đã bị tòa phúc thẩm sửa theo hướng Lào phạm tội vô ý làm chết người.
Phân biệt dựa vào luật nội dung
Để áp dụng pháp luật thống nhất, nhiều tòa đã gửi công văn trao đổi nghiệp vụ với cấp trên và TAND Tối cao. Tuy nhiên, đến nay một hướng dẫn chính thức của ngành tòa án về đường lối xử lý các trường hợp này vẫn chưa có.
Trao đổi tại hội nghị tổng kết toàn ngành tòa án vừa qua, đại diện Tòa Hình sự TAND Tối cao cho biết sẽ ghi nhận những vướng mắc của các tòa địa phương về vấn đề trên để Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao xem xét và có hướng dẫn.
Trước mắt, Tòa Hình sự TAND Tối cao yêu cầu các địa phương khi xét xử những vụ án loại này cần nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật nội dung như Luật Giao thông đường bộ, Luật Giao thông đường thủy… để vận dụng trong từng trường hợp cụ thể. Theo đó, chỉ khi cơ quan tố tụng chỉ ra được hành vi của bị can, bị cáo là vi phạm các quy tắc, quy định pháp luật cụ thể về giao thông thì mới xử lý họ về tội phạm giao thông tương ứng. Còn các trường hợp không chứng minh được hành vi của các bị can, bị cáo vi phạm các quy tắc, quy định cụ thể nào của pháp luật về an toàn giao thông thì cần xem xét xử lý họ về tội vô ý làm chết người.
Quy định liên quan
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
(Trích Điều 202 BLHS)
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy
Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường thủy mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường thủy gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ 10 triệu đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.
(Trích Điều 212 BLHS)
Tội vô ý làm chết người
Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
(Trích Điều 98 BLHS)
Dựa theo luật nội dung là đúng đắn
Theo tôi, đối với những vụ án mà nơi xảy ra tai nạn và lỗi vi phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Giao thông đường bộ thì có thể xử về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo Điều 202 BLHS. Còn nếu nơi xảy ra tai nạn là ruộng, sân nhà hay công viên… không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật giao thông thì nên xem xét truy tố, xét xử người gây tai nạn dẫn đến chết người theo một tội khác, có thể là vô ý làm chết người theo Điều 98 BLHS.
Một điều cần phải nhấn mạnh là chỉ có thể xét xử những người gây tai nạn theo Điều 202 BLHS khi họ điều khiển phương tiện được xác định là phương tiện giao thông đường bộ và vi phạm lỗi về an toàn giao thông dẫn đến hậu quả đáng tiếc.
Thẩm phán VŨ PHI LONG,
Phó Chánh tòa Hình sự TAND TP.HCM
Sớm hướng dẫn để có sự thống nhất
Việc phân biệt rõ các tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ hoặc tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy với tội vô ý làm chết người là vấn đề cấp thiết. Bởi lẽ hiện nay số vụ án liên quan đến những tội này có xu hướng gia tăng. Nếu không kịp thời có hướng dẫn thống nhất toàn ngành sẽ dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng án và bất nhất trong cách nhìn nhận, đánh giá vụ án giữa các cơ quan tố tụng.
Vì thế, tôi nghĩ TAND Tối cao cần sớm có hướng dẫn cụ thể chi tiết cho các tòa địa phương phân biệt các tội trên, tạo sự thống nhất trong việc điều tra, truy tố, xét xử đối với các án loại này.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

100 CÂU HỎI VỀ TRỌNG TÀI QUỐC TẾ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ HỒNG KÔNG

Vấn đề có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bổ nhiệm mới Chánh Tòa Hành chính, Trưởng, Phó phòng Tồ chức cán bộ và Phòng giám đốc kiểm tra