Những vấn đề sửa đổi, bổ sung một số điều của phần chung Bộ luật tố tụng dân sự

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự số 65/2011/QH12 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 3 năm 2011, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2012 (sau đây gọi tắt là Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS). Đồng thời với việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 9 cũng thông qua Nghị quyết số 60/2011/QH12 về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS. Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã sửa đổi, bổ sung 62 điều, bãi bỏ 8 điều liên quan đến bảy phần của BLTTDS và chủ yếu tập trung các vấn đề như nguyên tắc cơ bản, thẩm quyền của Toà án, chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự, thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và thủ tục giải quyết việc dân sự. Trong phạm vi bài trình bày này, tác giả giới thiệu và bình luận về những sửa đổi, bổ sung của Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS liên quan đến Phần chung của Bộ luật tố tụng dân sự (Từ Điều 1 đến Điều 160 BLTTDS).

I. VỀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
Hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự được quy định từ Điều 3 đến Điều 24 Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 (sau đây gọi tắt là BLTTDS). Nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự là những quy định nền tảng, cốt lõi của pháp luật tố tụng dân sự. Một số nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng bao gồm: Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự (Điều 3 BLTTDS), Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5 BLTTDS), Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (Điều 6 BLTTDS), Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 9 BLTTDS), Nguyên tắc hoà giải trong tố tụng dân sự (Điều 10 BLTTDS), Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 11 BLTTDS)… Một số nguyên tắc được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS như sau:
1. Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
Để bảo đảm cho đương sự thực hiện được nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ và Toà án có đầy đủ chứng cứ để giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ, việc dân sự thì phải quy định trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ cho đương sự và Toà án. Vì vậy, tại Điều 7 BLTTDS đã quy định nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Theo Điều luật này, cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ. Tuy vậy, BLTTDS chưa quy định về việc xử lý các vi phạm trong việc cung cấp chứng cứ không đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của Toà án, Viện kiểm sát.Việc này đã dẫn đến tình trạng thực tế“nhiều cơ quan, tổ chức chưa phối hợp chặt chẽ với Toà án, thậm chí chưa làm hết trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ... làm cho công tác giải quyết, xét xử nhiều vụ án bị kéo dài hoặc phải ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án...” ([1]) hoặc “...cùng một vấn đề nhưng nhiều trường hợp cơ quan có thẩm quyền có những văn bản xác nhận trái ngược nhau, ảnh hưởng đến việc giải quyết của Toà án”([2]).Hiện nay, khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS có sửa đổi, bổ sung Điều 7 BLTTDS như sau: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ.”[3]Sửa đổi, bổ sung như trên của Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS chủ yếu là bổ sung chủ thể “Viện kiểm sát” để phù hợp với những sửa đổi, bổ sung nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, quy định rõ việc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó và tại khoản 21 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS sửa đổi Điều 94 BLTTDS cụ thể nguyên tắc này bằng việc quy định việc xử lý các vi phạm trong việc cung cấp chứng cứ không đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của Toà án, Viện kiểm sát.
2. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng dân sự
Để bảo đảm việc giải quyết vụ án được đúng đắn thì những người tiến hành tố tụng và một số người tham gia tố tụng dân sự (như người giám định, người phiên dịch và thành viên của Hội đồng định giá tài sản) phải vô tư khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tại Điều 16 BLTTDS quy định: “Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người phiên dịch, người giám định không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.” Theo Điều luật này, Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người phiên dịch, người giám định phải vô tư, không được thiên vị trong khi thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Trường hợp có căn cứ theo quy định của pháp luật để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì họ phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự cho thấy, trong những vụ việc dân sự cần phải xác định giá trị tài sản thì việc định giá tài sản có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết các vụ việc dân sự. Kết quả định giá tài sản là một trong những căn cứ để Toà án tiến hành giải quyết vụ, việc dân sự cũng như để xác định án phí, lệ phí giải quyết vụ việc dân sự. Do đó, việc xác định đúng giá trị tài sản của vụ, việc dân sự có ảnh hưởng rất lớn đến tính chính xác trong phán quyết của Toà án. Để làm được điều này thì các thành viên của Hội đồng định giá phải thực sự vô tư, không thiên vị trong quá trình tiến hành định giá tài sản. Tuy nhiên, BLTTDS lại chưa quy định về việc bảo đảm sự vô tư của họ. Để khắc phục hạn chế này, khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung BLTTDS đã sửa đổi Điều 16 BLTTDS như sau: “Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người phiên dịch, người giám định, thành viên Hội đồng định giá không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.” Như vậy, theo quy định này thì thành viên Hội đồng định giá tài sản khi thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình cũng phải vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Nếu có căn cứ để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thì họ phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi. Căn cứ từ chối, thay đổi thành viên Hội đồng định giá tài sản trước đây được hướng dẫn tại Mục 7.3 Phần IV Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/09/2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “chứng minh và chứng cứ ”. Hiện nay, Điều 92 BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 20 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS.
3. Nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận tố tụng dân sự
Nghị quyết 08 - NQ/ TƯ ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nhấn mạnh định hướng mới trong hoạt động của các cơ quan tư pháp:
“c) Khi xét xử, các Toà án phải đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan… Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên… nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định.d)Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: …nghiên cứu hồ sơ, tranh luận dân chủ tại phiên toà ([4]).
Để thực hiện nhiệm vụ này, BLTTDS đã có nhiều quy định đề cao vai trò của đương sự trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như các quy định bảo đảm cho các bên đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh (Điều 6 BLTTDS), nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của các đương sự (Điều 9 BLTTDS), các quy định về quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự (từ Điều 58 đến Điều 62 BLTTDS)... Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, quán triệt các Thẩm phán khi tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện để đương sự thực hiện quyền tranh luận của đương sự để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã bổ sung Điều 23a để quy định vấn đề này thành: Nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong tố tụng dân sự.
Tại Điều 23a Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS quy định: “Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Toà án bảo đảm để các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Như vậy, theo quy định này thì các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền tranh luận trong suốt quá trình Toà án giải quyết vụ án dân sự kể từ khi đương sự có yêu cầu và Toà án thụ lý cho đến khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Trong quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền đưa ra yêu cầu; có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Toà án; có quyền yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được; có quyền đề nghị Toà án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá, thẩm định giá; có quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập; có quyền tham gia phiên toà; có quyền trình bày về các yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu; có quyền tranh luận về chứng cứ, trình bày quan điểm, lập luận của mình về các tình tiết của vụ án; có quyền bác bỏ những lập luận của các đương sự khác, đưa ra quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ án; đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của Toà án hoặc đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi với người khác; được đối chất với nhau hoặc người làm chứng; có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm... Các đương sự được bình đẳng trong việc thực hiện quyền tranh luận nên Toà án không được phân biệt đối xử giữa họ. Ngoài ra, Toà án còn có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tạo điều kiện cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để ra bản án, quyết định đúng pháp luật như các đương sự đều phải được Toà án triệu tập tham gia tố tụng, giải thích cho đương sự quyền tranh luận của họ, tạo điều kiện cho họ biết, sao chụp các chứng cứ, tài liệu do người khác cung cấp hoặc Toà án thu thập v.v…
Quy định về nguyên tắc này còn là cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể của BLTTDS nhằm bảođảm cho đương sự thực hiện quyền tranh luận như bổ sung quy định về đương sự có quyền đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của Tòa án; bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm quy định tại khoản 13, khoản 26 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS.
4. Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
Theo quy định tại Điều 21 BLTTDS thì: 1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. 2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà đối với những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuc thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Toà án.”
Tuy vậy, qua thực tiễn thi hành BLTTDS cho thấy, quy định này còn có nhiều hạn chế, bất cập như chưa bảo đảm được việc kiểm sát, giám sát các hoạt động tố tụng dân sự, “đương sự có đơn đề nghị Viện kiểm sát tham gia phiên toà nhưng vì trong đơn họ không có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Toà án nên Viện kiểm sát không thể tham gia phiên toà theo yêu cầu của đương sự” ([5]); nhiều vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhưng Viện kiểm sát không phát hiện kịp thời để kháng nghị dẫn đến tình trạng “một số vụ việc dân sự giải quyết thiếu khách quan, không bảo vệ kịp thời tài sản của Nhà nước, của công dân và đặc biệt những vụ việc dân sự mà đương sự là người yếu thế trong xã hội” ([6]) v.v…Để khắc phục những hạn chế này, khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã sửa cơ bản quy định tại Điều 21 BLTTDS về nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Việc sửa đổi này nhằm mục đích nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của Viện kiểm sát, đảm bảo khách quan khi giải quyết vụ việc dân sự, hạn chế những vi phạm pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự để góp phần bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự được đúng đắn.
Tại khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS quy định:
“1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật”. 2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. 3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. 4. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều này”.
Như vậy, quy định này đã khẳng định các Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan chịu trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, các hoạt động tố tụng dân sự của những người tiến hành tố tụng dân sự và những người tham gia tố tụng dân sự là đối tượng của hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát. Để thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các hoạt động tố tụng dân sự, Viện kiểm sát có thể yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chuyển hồ sơ, tài liệu giải quyết vụ án cho mình nghiên cứu, trực tiếp giám sát các hoạt động tố tụng dân sự của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng để phát hiện những vi phạm pháp luật của các hoạt động tố tụng dân sự. Về việc tham gia các phiên họp giải quyết việc dân sự của Viện kiểm sát nhân dân, điều luật này giữ nguyên quy định cũ là Viện kiểm sát nhân dân tham gia tất cả các phiên họp. Về việc tham gia các phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân, điều luật đã quy định mở rộng phạm vi tham gia các phiên toà của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã quy định theo hướng kết hợp giữa việc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự và việc bảo đảm sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong những trường hợp cần thiết. Theo đó, căn cứ vào tính chất, đối tượng của từng vụ việc dân sự để quy định cụ thể những trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm, như: Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm trong trường hợp Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở. Bên cạnh đó, đối với trường hợp đương sự trong vụ án là những cá nhân không có khả năng tự thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì Viện kiểm sát nhân dân cũng phải tham gia phiên toà sơ thẩm nhưng tại phiên toà sơ thẩm thì Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đối với phiên toà phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, với quan điểm bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm có hiệu lực thi hành ngay, việc sửa chữa, khắc phục là rất phức tạp, do vậy, điều luật này quy định Viện kiểm sát nhân dân tham gia tất cả các phiên toà đó và phát biểu ý kiến về toàn bộ vụ án (Hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đang chủ trì phối hợp với Toà án nhân dân tối cao xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn quy định này).
II. VỀ THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN
Thẩm quyền của Toà án được quy định tại các điều từ điều 25 đến điều 38 Chương III Phần thứ nhất Những quy định chung của BLTTDS và được sửa đổi, bổ sung tại các mục từ mục 5 đến mục 12 của Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS. Về cơ bản, Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền của Toà án theo hướng mở rộng hơn những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Toà án và tăng thẩm quyền của Toà án cấp huyện, bảo đảm sự đồng bộ và thống nhất của quy định pháp luật tố tụng với quy định của pháp luật nội dung. Những vấn đề được sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền của Toà án cụ thể như sau:
1. Những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Toà án:
1.1. Những tranh chấp và yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án (Điều 25, Điều 26)
BLTTDS quy định cụ thể các loại vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của Toà án theo phương pháp liệt kê và có kèm theo một điều khoản mà người ta thường gọi là “điều khoản quét” đó là các tranh chấp hay yêu cầu khác về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại mà pháp luật có quy định. Những quy định của BLTTDS về thẩm quyền của Toà án cũng được hướng dẫn chi tiết và cụ thể tại mục I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng quy định của BLTTDS về thẩm quyền của Toà án vẫn phát sinh một số khó khăn, vướng mắc:
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 45 Luật Công chứng thì Công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đề nghị Toà án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật. Luật quy định cụ thể như trên, nhưng trên thực tế khi phát hiện văn bản công chứng trái pháp luật, người dân có đơn yêu cầu Toà án tuyên bố văn bản công chứng trái pháp luật là vô hiệu, nhưng vẫn chưa được giải quyết. Khi tiếp nhận đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng trái pháp luật vô hiệu theo Điều 45 Luật Công chứng, Toà án rất lúng túng, thường từ chối thụ lý đơn, với lý do: Không thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc chưa đủ điều kiện thụ lý …Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng trái pháp luật hoặc huỷ hợp đồng (không có tranh chấp) là vụ án dân sự hay là việc dân sự. Từ ngày BLTTDS và Luật Công chứng có hiệu lực thi hành đến nay chưa có hướng dẫn nào Hội đồng thẩm phán TANDTC về thủ tục thụ lý giải quyết loại việc này….
Thứ hai, theo quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Theo quy định tại khoản 1 Điều 102 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì đương sự, Chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 chưa quy định cho Toà ánthẩm quyền giải quyết những vụ việc nêu trên.
Do vậy, Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS chủ yếu sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền theo loại vụ việc theo hướng bổ sung các quy định về thẩm quyền đã có quy định tại các văn bản pháp luật khác mà chưa được liệt kê trong BLTTDS để đảm bảo tính thống nhất trong các quy định của pháp luật, tránh tình trạng có quan điểm khác nhau khi áp dụng.
Tại các khoản 5, 6 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã sửa đổi bổ sung Điều 25 (Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án); Điều 26 (Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền của Toà án).Về những tranh chấp, yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS bổ sung thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự tại Điều 25 BLTTDS về những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; bổ sung thẩm quyền giải quyết các yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự tại Điều 26 về những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Ngoài ra, về vấn đề này Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS còn sửa đổi, bổ sung quy định tranh chấp về quyền sử dụng đất và về tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai bằng việc bỏ chữ “và” là tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội cho rằng trên thực tế có nhiều trường hợp chỉ xảy ra tranh chấp về quyền sử dụng đất.
1.2. Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án (Điều 31)
Thứ nhất, theo quy định của khoản 1 Điều 31 BLTTDS năm 2004 thì chỉ trong trường hợp tranh chấp lao động cá nhân mà hoà giải không thành hoặc không giải quyết trong thời hạn luật định mới thuộc thẩm quyền của Toà án. Trong thực tiễn xảy ra nhiều trường hợp tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoà giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, thì các bên vẫn không được quyền khởi kiện ra Toà án bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Quy định như vậy là bất hợp lý, không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp. Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDSđã khắc phục được vướng mắc này bằng việc quy định tranh chấp lao động cá nhân  hoà giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Thứ hai, Bộ luật lao động năm 1994 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002 và năm 2006 có quy định phân biệt tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Toà án nhân dân chỉ giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền (tranh chấp về việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế thoả thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp mà tập thể lao động cho rằng người sử dụng lao động đã vi phạm) sau khi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết mà hai bên vẫn còn tranh chấp hoặc hết thời hạn giải quyết (không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết) mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện không giải quyết, mỗi bên yêu cầu Toà án nhân dân giải quyết.
Để phù hợp với quy định của Bộ luật lao động, Luật sửa đổi bổ sung BLTTDS cũng sửa đổi, bổ sung quy định về tranh chấp lao động tập thể, theo đó chỉ những tranh chấp lao động tập thể về quyền giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động đã được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không giải quyết mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
2. Thẩm quyền của Toà án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức
Thẩm quyền của Toà án đối với quyết định của cơ quan, tổ chức không phải là thẩm quyền mới lần đầu tiên được quy định. Theo quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì “Khi xét xử vụ án dân sự, Toà án có quyền huỷ quyết định rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức khác xâm phạm quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết”. Theo quy định này thì trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự Toà án nhận thấy có quyết định rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức khác xâm phạm quyền lợi hợp pháp của đương sự thì Toà án có quyền huỷ quyết định rõ ràng trái pháp luật đó. Nhưng nội dung này đã không còn được quy định trong BLTTDS. Toà án chỉ có quyền kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tự xem xét lại các quyết định đó, trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền không thực hiện kiến nghị của Toà án thì đương sự lại phải khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà án tuyên huỷ quyết định rõ ràng trái pháp luật đó theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Như vậy, để thực hiện việc huỷ quyết định rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức phải trải qua nhiều thủ tục, làm mất nhiều thời gian, công sức của người dân, gây tốn kém kinh phí của cơ quan nhà nước. Thực tế, nhiều trường hợp Toà án kiến nghị nhưng các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyết định của Toà án dẫn đến việc tuân thủ bản án quyết định của Toà án không nghiêm. Do vậy, Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS quy định thẩm quyền của Toà án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức như sau:
Điều 32a. Thẩm quyền của Toà án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức
1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Toà án có quyền huỷ quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết. Trong trường hợp này, cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng.
2. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt bị yêu cầu huỷ quy định tại khoản 1 Điều này, thì quyết định cá biệt đó được Toà án xem xét trong cùng vụ việc dân sự. Thẩm quyền của cấp Toà án giải quyết vụ việc dân sự đó được xác định theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 của Luật tố tụng hành chính.
3. Toà án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Điều này.
Nội dung thẩm quyền này của Toà án quy định như trên có nhiều điểm mới và nhiều điểm cần có hướng dẫn cụ thể hơn:
Thứ nhất, điểm mới quan trọng là việc làm rõ Toà án chỉ có quyền huỷ “quyết định cá biệt” chứ không quy định chung chung là “quyết định” như quy định tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Như vậy, quy định này (i) loại trừ văn bản quyết định quy phạm quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật như: quyết định của Chủ tịch nước, của Thủ tướng Chính phủ, của Tổng kiểm toán Nhà nước; (ii) giới hạn chỉ loại văn bản áp dụng pháp luật được ban hành áp dụng đối với cá nhân, tổ chức cụ thể, ví dụ như quyết định khen thưởng, quyết định kỷ luật, quyết định bổ nhiệm một người giữ chức vụ cụ thể... có tính bắt buộc, tính đơn phương; (iii) chứa đựng quy tắc xử sự riêng; áp dụng một hoặc số đối tượng nhất định; (iv) áp dụng một lần; (v) hiệu lực trong thời gian ngắn; (vi) tác động phạm vi hẹp; (vii) áp dụng văn bản quy phạm pháp luật để làm căn cứ pháp lý.
Thứ hai, Bộ luật tố tụng hình sự có quy định về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự), Luật tố tụng hành chính có quy định về giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính (Điều 6 Luật tố tụng hành chính). Các quy định này đều điều chỉnh vấn đề dân sự trong tố tụng hình sự và tố tụng hành chính. Tuy nhiên, lần đầu tiên trong tố tụng dân sự quy định việc áp dụng tố tụng hành chính mà cụ thể là: “Thẩm quyền của cấp Toà án giải quyết vụ việc dân sự đó được xác định theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 của Luật tố tụng hành chính.”. Quy định này xuất phát từ thực trạng các quyết định rõ ràng trái pháp luật bị huỷ thường là quyết định hành chính (quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà cho một bên không đúng pháp luật….), quyết định kỷ luật buộc thôi việc… là các quyết định thuộc phạm vi khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo Luật tố tụng hành chính. Vì vậy, vấn đề thẩm quyền phải bảo đảm sự thống nhất với quy định của Luật tố tụng hành chính thì quy định trong tố tụng dân sự mới bảo đảm tính khả thi. Do vậy, về vấn đề này khi hướng dẫn cụ thể chi tiết hơn chúng ta cần nhấn mạnh và có sự thống nhất với các hướng dẫn về Điều 29 và Điều 30 của Luật tố tụng hành chính. Như vậy, khoản 2 Điều 32a cần được hiểu là khi giải quyết yêu cầu huỷ quyết định hành chính trong cùng vụ việc dân sự thì vẫn do Toà dân sự (nếu thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh) giải quyết và bản án, quyết định vẫn có số, ký hiệu dân sự… chỉ riêng thẩm quyền là theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Điều này đặt ra vấn đề trong trường hợp Toà án cấp huyện đang giải quyết vụ việc dân sự mà có liên quan đến quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc… rõ ràng trái pháp luật bị yêu cầu huỷ thuộc thẩm quyền giải quyết khiếu kiện của Toà án cấp tỉnh theo quy định của Luật tố tụng hành chính thì Toà án cấp huyện phải chuyển vụ việc dân sự đang giải quyết lên Toà án cấp tỉnh để giải quyết đồng thời với vụ việc dân sự và yêu cầu huỷ quyết định cá biệt trái pháp luật theo đúng quy định về thẩm quyền của Luật tố tụng hành chính. Trong trường hợp quyết định cá biệt đó được Toà án xem xét trong cùng vụ việc dân sự mà đương sự chỉ kháng cáo phần quyết định của bản án về yêu cầu huỷ quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật hoặc phần quyết định của bản án về yêu cầu huỷ quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật bị Toà án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm huỷ để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại thì phần quyết định về yêu cầu huỷ quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật bị kháng cáo hoặc bị huỷ để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại là một phần của vụ án dân sự và việc giải quyết vẫn theo quy định về thủ tục tố tụng của Bộ luật tố tụng dân sự được sửa đổi, bổ sung.
Thứ ba, quyết định cá biệt phải “rõ ràng trái pháp luật”. Trong quá trình soạn thảo quy định này có ý kiến cho rằng nên bỏ từ “rõ ràng” vì không có ý nghĩa trong việc xác định quyết định cá biệt, việc xác định quyết định cá biệt như thế nào là rõ ràng trái pháp luật là không có tiêu chí. Có ý kiến cho rằng, rõ ràng là trái pháp luật được thể hiện hiển nhiên mà được nhiều người thừa nhận, kể cả cơ quan, tổ chức có quyết định bị yêu cầu huỷ phải đồng ý. Đây là một tiêu chí quan trọng cần xem xét nhưng cần từng bước làm rõ để áp dụng vì sẽ có trường hợp quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật nhưng cơ quan, tổ chức có quyết định bị yêu cầu hủy vẫn không đồng ý. Có thể hiểu quyết định cá biệt rõ ràng là quan pháp luật là các quyết định cá biệt được ban hành không đúng thẩm quyền, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định.
Thứ tư, theo quy định tại khoản 2 Điều 32a thì quyết định cá biệt phải có yêu cầu huỷ thì Toà án mới xem xét việc huỷ. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 32a lại không có quy định về việc quyết định cá biệt phải có yêu cầu huỷ. Từ quy định như vậy nên có hai cách quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: quyết định rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức  Toà án phát hiện trong quá trình giải quyết vụ việc nhưng Toà án cũng không thể huỷ nếu đương sự không yêu cầu. Quy định này xuất phát từ bản chất của tố tụng dân sự bảo đảm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự.
Quan điểm thứ hai: quyết định rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức  Toà án phát hiện trong quá trình giải quyết vụ việc thì Toà án có quyền tự mình huỷ mà không phụ thuộc vào việc đương sự có yêu cầu hay không.
Khi chưa có hướng dẫn khác thì phải theo quan điểm thứ nhất, vì khoản 2 Điều 32a đã quy định mang tính cụ thể
3. Thẩm quyền của Toà án các cấp
Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS tại Điều 1 các khoản 9, 10, 11 và 12 sửa đổi bổ sung các điều của BLTTDS vềthẩm quyền của Toà án các cấp như sau: Điều 33 (Thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh), Điều 35 (Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ), Điều 36 (Thẩm quyền của Toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu), và Điều 37 (Chuyển vụ việc dân sự cho Toà án khác giải quyết tranh chấp về thẩm quyền).
3.1. Thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện (Điều 33 BLTTDS)
BLTTDS chỉ giao chín loại tranh chấp (từ điểm a đến điểm i) cho Toà án cấp huyện, còn năm loại tranh chấp sau (điểm k, l, m, n, o) của khoản 1 và các tranh chấp quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 29 BLTTDS lại thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh. Tuy nhiên, trong xu hướng cải cách tư pháp tăng cường thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện thì quy định như trên là chưa phù hợp. Do vậy, Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS giao thẩm quyền xét xử sơ thẩm toàn bộ 14 loại tranh chấp kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 29 BLTTDS cho Toà án cấp huyện. Như vậy, Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Toà án cấp huyện toàn bộ các loại tranh chấp kinh doanh, thương mại mà không phân biệt tính phức tạp, đến độ khó của từng loại tranh chấp cụ thể. Ngoài những nội dung sửa đổi nêu trên, các quy định khác tại Điều 33 BLTTDS được giữ nguyên. Do vậy, về cơ bản những nội dung hướng dẫn về vấn đề này tại mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 01/2005) vẫn có giá trị.
Về thẩm quyền theo cấp của Toà án, hiện tại cũng có vướng mắc khi áp dụng những hướng dẫn này như sau:
Thực tiễn xảy ra trường hợp khi ký kết hợp đồng kinh tế, các bên thường thoả thuận nếu có tranh chấp phát sinh thì yêu cầu Toà kinh tế Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết (Toà án nhân dân cấp tỉnh), tuy nhiên trong trường hợp thoả thuận này lại không phù hợp với quy định về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ (theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và điểm b khoản 1 Điều 33 thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện (trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 33, khoản 2 Điều 34 BLTTDS). Trong các trường hợp này, các Toà án chưa thống nhất về việc xác định thẩm quyền, dẫn đến nhiều vụ án phải chuyển đi chuyển lại do có quan điểm khác nhau về việc vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà án nào?
Vấn đề đặt ra ở đây là các đương sự thoả thuận Toà án giải quyết không đúng thẩm quyền theo quy định về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ của BLTTDS thì sẽ xác định thẩm quyền của Toà án theo sự thoả thuận của đương sự hay xác định theo quy định về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ của BLTTDS? Về vấn đề này cũng có hai quan điểm giải quyết mà hiện chưa có một hướng dẫn cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: Áp dụng rộng rãi nguyên tắc tự lựa chọn của các bên, tức là quy định các bên có quyền thoả thuận chọn Toà án giải quyết tranh chấp và ghi vào trong hợp đồng thì Toà án đó có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh mà không nhất thiết phải tuân thủ các quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ. Chỉ khi nào các bên không thoả thuận lựa chọn Toà án giải quyết thì mới áp dụng quy định thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ.
Quan điểm thứ hai: Sự lựa chọn của các bên phải phù hợp với quy định của pháp luật. Sự lựa chọn của các bên không thể tuỳ tiện, sự lựa chọn của các bên phải tuân thủ các quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ. Hay nói một cách khác các bên chỉ có quyền lựa chọn khi vụ việc tranh chấp theo quy định pháp luật các bên có thể lựa chọn
Thẩm quyền của Toà án đã được quy định cụ thể trong BLTTDS và người khởi kiện chỉ được khởi kiện tại Toà án có thẩm quyền được quy định trong BLTTDS; nếu đương sự căn cứ thoả thuận trong hợp đồng (về việc lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp) để khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp nhưng thoả thuận của đương sự không phù hợp với quy định của pháp luật nên Toà án mà các đương sự lựa chọn không có thẩm quyền thụ lý đơn để giải quyết. Khi gặp trường hợp này, Toà án đã nhận đơn phải chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện biết. Đây là quan điểm của Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao [7], khi không có hướng dẫn khác thì cần phải theo quan điểm này.
3.2. Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ (Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Việc sửa đổi, bổ sung BLTTDS về vấn đề này chủ yếu là để quy định thẩm quyền theo lãnh thổ đối với các yêu cầu mới được quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS là yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật. Theo đó, thì Toà án nơi Phòng công chứng, Văn phòng công chứng đã thực hiện việc công chứng có trụ sở có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; Toà án nơi Cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành án có trụ sở hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật.
Thực hiện quy định của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung cũng có vướng mắc như sau: các bên thoả thuận lựa chọn Toà án nơi nguyên đơn cư trú phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết tranh chấp về bất động sản nhưng bất động sản đang tranh chấp lại thuộc địa phận của Toà án khác. Vậy trong trường hợp này thì Toà án nơi có bất động sản giải quyết quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35 BLTTDS hay Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc giải quyết quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 BLTTDS. Trong trường hợp này thì có quan điểm cho rằng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 33 của BLTTDS thì Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản. Do đó, đối với tranh chấp về bất động sản thì chỉ có Toà án nơi có bất động sản mới có thẩm quyền giải quyết. Quy định tại các điểm a, b khoản 1 Điều 35 BLTTDS không áp dụng trong trường hợp tranh chấp về bất động sản. Quan điểm này là phù hợp tuy nhiên để việc áp dụng pháp luật được thống nhất thì cần hướng dẫn quy định tại khoản 1 Điều 35 BLTTDS theo hướng việc áp dụng quy định về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ phải theo thứ tự ưu tiên như sau: (i) Nếu là tranh chấp về bất động sản thì chỉ có Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết; (ii) Nếu không phải là tranh chấp về bất động sản thì chỉ lựa chọn Toà án nơi nguyên đơn cư trú hoặc có trụ sở nếu các bên có thoả thuận; (iii) Nếu không thuộc trường hợp (i) và (ii) thì Toà án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nơi cư trú hoặc có trụ sở của bị đơn.
3.3. Thẩm quyền của Toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn (Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự)
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, người yêu cầu, để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ thực hiện việc khởi kiện hoặc yêu cầu Toà án giải quyết, Điều 36 BLTTDS năm 2004 quy định có thể xác định thẩm quyền của Toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu.
Quy định về thẩm quyền của Toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu của BLTTDS là hết sức rõ ràng. Quy định này được hướng dẫn cụ thể tại mục 5 phần I Nghị quyết số 01/2005. Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS chỉ sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm a khoản 2 Điều 36 BLTTDS năm 2004 để quy định thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu đối với các yêu cầu mới được quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS là yêu cầu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật. Theo đó, đối với các yêu cầu này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi có tài sản của người bị yêu cầu giải quyết.
3.4. Chuyển vụ việc dân sự cho Toà án khác, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền
Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS sửa đổi, bổ sung Điều 37 BLTTDS chủ yếu để làm rõ vai trò của của Viện kiểm sát kiểm sát trong việc chuyển vụ việc dân sự cho Toà án khác, bảo đảm sự thống nhất với việc sửa đổi, bổ sung vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự quy định tại Điều 21 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS. Đồng thời, Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS cũng quy định quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Toà án ra quyết định chuyển vụ việc dân sự là quyết định cuối cùng.
Nhìn chung, những quy định thẩm quyền của Toà án được quy định trong BLTTDS là rất khoa học, rõ ràng và đã được hướng dẫn cụ thể tại mục I Nghị quyết số 01/2005. Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS chủ yếu sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tinh thần của cải cách tư pháp và sự thống nhất chung của hệ thống pháp luật.
III. VỀ ĐƯƠNG SỰ VÀ NHỮNG NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG KHÁC
1. Quyền và nghĩa vụ của đương sự
Quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại các điều từ điều 58 đến điều 61 Chương VI Phần thứ nhất“Những quy định chung” của BLTTDS và được sửa đổi, bổ sung tại các mục từ khoản 13 đến khoản 16 của Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS. Về cơ bản, Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS sửa đổi, bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo hướng bảo đảm hơn nữa quyền tranh luận của các đương sự nói riêng và quyền, lợi ích của đương sự nói chung; đồng thời sửa đổi, bổ sung một cách khoa học, chính xác, rõ nghĩa hơn. Những vấn đề được sửa đổi, bổ sung về quyền và nghĩa vụ của đương sự cụ thể như sau:
- Bổ sung quyền giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của BLTTDS:
Đây là các quyền thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS mà có nền tảng từ quyền tự định đoạt của đương sự trong pháp luật dân sự. Tuy nhiên, BLTTDS năm 2004 lại không quy định tại Điều 58 là quyền và các nghĩa vụ chung của đương sự mà chỉ quy định là một nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định tại Điều 5 của BLTTDS và được cụ thể hoá trong các quy định tại các điều như: Điều 192, Điều 217, 218 BLTTDS. Vì vậy, mặc dù các quyền này không được quy định tại Điều 58 BLTTDS là quyền và nghĩa vụ chung của đương sự nhưng trong thực tiễn các đương sự vẫn có cơ sở pháp lý để thực hiện quyền này. Tuy vậy, để bảo đảm các quy định chung của BLTTDS có tính khái quát và phù hợp với những sự cụ thể hoá trong các quy định cụ thể của BLTTDS thì việc bổ sung tại Điều 58 quyền giữ nguyên, thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự là rất hợp lý.
- Bổ sung quyền đề nghị Toà án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng:
Trong tố tụng dân sự, việc giải quyết vụ việc dân sự không chỉ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nguyên đơn, bị đơn, người yêu cầu mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người có những mối quan hệ pháp luật với nguyên đơn, bị đơn hay người yêu cầu. Vì vậy, quá trình giải quyết vụ việc dân sự cần có sự tham gia của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã bổ sung quy định đương sự có quyền đề nghị Toà án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhằm bảo đảm sự tham gia của đương sự này vào quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự.
- Sửa đổi, bổ sung quyền đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định của BLTTDS;
Trong quá trình Toà án giải quyết vụ án dân sự có thể xuất hiện những trường hợp vì một lý do nào đó Toà án phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, tạm dừng quá trình giải quyết vụ án trong một khoảng thời gian nhằm bảo đảm việc tham gia và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của đương sự, đồng thời bảo đảm cho Toà án có điều kiện để giải quyết đúng đắn vụ án. Về nguyên tắc, không phải cứ có yêu cầu là Toà án có thể chấp nhận mà Toà án chỉ ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có các căn cứ do pháp luật đã quy định (Điều 189 BLTTDS và khoản 30 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS). Đương sự là người có quyền và lợi ích gắn liền với kết quả giải quyết các vụ án của Toà án nên trong trường hợp việc giải quyết vụ án phải tạm đình chỉ thì đương sự có quyền yêu cầu Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Mặc dù vậy, Điều 58 BLTTDS không quy định quyền đề nghị Toà án tạm đình chỉ là quyền chung của đương sự mà chỉ quy định tại Điều 59 là nguyên đơn có quyền đề nghị Toà án Tạm đình chỉ giải quyết vụ án là quy định bất hợp lý và không bảo đảm quyền bình đẳng giữa các đương sự nên khoản Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã bổ sung quyền đề nghị Toà án Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là quyền chung của các đương sự.
- Sửa đổi, bổ sung quyền “ Đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với nhân chứng” thành quyền Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của Toà án hoặc đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi với người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng”.
Một trong những nội dung của cải cách tư pháp là mở rộng tranh tụng trong tố tụng dân sự với việc đề cao vai trò của đương sự trong hoạt động tố tụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi để đương sự tham gia tố tụng nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã bổ sung cho đương sự có quyền: “ Đưa ra các câu hỏi với người khác về vấn đề có liên quan đến vụ án khi được phép của Toà án” thay vì đương sự chỉ có “Quyền đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng”. Sửa đổi, bổ sung này là một bảo đảm để đương sự có thể có điều kiện thuận lợi tham gia vào thủ tục hỏi tại Toà án với sự điều khiển của Toà án nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện khách quan của vụ việc dân sự.
- Sửa đổi quyền “Phát hiện và thông báo với người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thành quyền “Đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật”.
Khi bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thì các đương sự không có quyền kháng cáo bản án, quyết định đó để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật vẫn có thể bị xét lại theo thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. BLTTDS mới chỉ quy định cho đương sự “Quyền phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”tại Điều 58 BLTTDS. Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã quy định đương sự có quyền Đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật” và quy định cụ thể hoá về các thủ tục đề nghị, nhận đơn đề nghị và xét đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm [8] là một bảo đảm để các chủ thể có thẩm quyền xem xét đề nghị của đương sự kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được quy định tại Điều 63 BLTTDS năm 2004 và được sửa đổi, bổ sung tại khoản 16 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS. Cụ thể, Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã bổ sung Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý được Toà án chấp nhận làm người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự cho phù hợp với quy định tại Điều 21 của Luật Trợ giúp pháp lý đã được Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29-6-2006; đồng thời,chỉ rõ những đối tượng là công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an không được là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
IV. VỀ CHỨNG MINH VÀ CHỨNG CỨ
Vấn đề chứng minh và chứng cứ được quy định tại các điều từ Điều 79 đến Điều 98 Chương VII Phần thứ nhất“Những quy định chung của BLTTDS” và được sửa đổi, bổ sung tại các mục từ khoản 17 đến khoản 21 của Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS. Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS chủ yếu tập trung sửa đổi, bổ sung nguồn chứng cứ mới là thẩm định giá tài sản.
Những vấn đề được sửa đổi, bổ sung về chứng minh và chứng cứ cụ thể như sau:
1. Về nguồn chứng cứ và thu thập chứng cứ
Thứ nhất, ngoài các nguồn chứng cứ theo quy định tại Điều 82 BLTTDS năm 2004  được hướng dẫn tại mục 2 Phần II Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 thì khoản 17 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS còn bổ sung một nguồn chứng cứ mới là: “thẩm định giá tài sản”.
Thứ hai, khoản 18 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS sửa đổi, bổ sung Điều 85 BLTTDS về thu thập chứng cứ của BLTTDS năm 2004 như sau:
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS năm 2004 thì: “Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:…”.
Khoản 18 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã bỏ hai điều kiện là “đương sự không tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu”, thay bằng cụm từ “do Bộ luật này quy định”.
Với cách quy định này, hiện có hai ý kiến khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Thẩm phán có quyền chủ động sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 85 Luật sửa đổi, bổ sung mà không cần có yêu cầu của đương sự yêu cầu.
Quan điểm thứ hai cho rằng, phải căn cứ vào các quy định cụ thể tại các điều trong BLTTDS để xác định trường hợp nào thì Thẩm phán có quyền chủ động sử dụng các biện pháp quy định ở khoản 2 Điều 85 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS, trường hợp nào thì phải có đương sự có yêu cầu Toà án mới được sử dụng các biện pháp đó để thu thập chứng cứ.
Quan điểm thứ hai là phù hợp với quy định tại Điều 6, Điều 79, khoản 1 Điều 84 của BLTTDS năm 2004 và Điều 94 của Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS và cần hướng dẫn điều này theo hướng những biện pháp thu thập chứng cứ nào mà Bộ luật TTDS không quy định đương sự phải yêu cầu thì Thẩm phán có quyền chủ động thu thập chứng cứ [9].
- Ngoài những biện pháp thu thập chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS năm 2004 [10], Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS bổ sung hai biện pháp thu thập chứng cứ là “yêu cầu thẩm định giá tài sản” và “đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với người làm chứng”.
- Khoản 4 Điều 85 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã bổ sung một quy định mới cho phép Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Như vậy, từ quy định tại khoản 2 Điều 85 của Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS, qua nghiên cứu các quy định cụ thể về các biện pháp thu thập chứng cứ, thì thấy các trường hợp Thẩm phán có quyền chủ động sử dụng các biện pháp sau để thu thập chứng cứ là:
- Lấy lời khai của đương sự: Thẩm phán chỉ được chủ động tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản tự khai, hoặc nội dung bản tự khai chưa đầy đủ, rõ ràng, hoặc đương sự không thể tự viết được.
- Lấy lời khai của người làm chứng, đối chất: Khi xét thấy cần thiết hoặc xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của đương sự, người làm chứng, thì Thẩm phán có quyền chủ động tiến hành lấy lời khai của người làm chứng hoặc tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau.
- Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản: Toà án chỉ có quyền chủ động ra quyết định định giá tài sản, thẩm định giá mà không cần đương sự yêu cầu khi: “Các bên thoả thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá theo mức giá thấp nhằm trốn tránh nghĩa vụ nhà nước” (điểm b khoản 1 Điều 92 của Luật sửa đổi, bổ sung).
- Uỷ thác tư pháp: Đây là biện pháp thu thập chứng cứ hoàn toàn do Toà án chủ động xuất phát từ tình hình thực tế của vụ án, mà không cần đương sự yêu cầu.
- Xem xét, thẩm định tại chỗ: Điều 89 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 chỉ quy định về cách thức tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, mà không quy định việc xem xét, thẩm định này phải theo yêu cầu của đương sự hay do Toà án xét thấy cần thiết. Các điều luật khác cũng không đề cập đến việc xem xét này cần phải có yêu cầu của đương sự.
Ngoài những trường hợp đã phân tích ở trên, các trường hợp khác khi tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ phải trên cơ sở thoả mãn hai điều kiện sau đây:
- Đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ.
- Đương sự phải có yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ.
Khi đương sự có yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ, Toà án cần phải giải thích cho đương sự biết về nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng (chi phí giám định, tiền tạm ứng chi phí định giá…). Toà án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng, nếu thuộc trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng.
2. Về trưng cầu giám định, định giá tài sản và thẩm định giá tài sản
2.1. Về trưng cầu giám định
Vấn đề trưng cầu giám định được quy định tại Điều 90 BLTTDS năm 2004 và hướng dẫn tại mục 6 Phần IV Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. BLTTDS cho phép người đã tiến hành giám định trước đó có thể thực hiện lại việc giám định, nhưng để nâng cao hơn tính khách quan của việc giám định lại, tại khoản 19 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã bổ sung quy định “...Người đã thực hiện việc giám định trước đó không được thực hiện giám định lại. Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 46 của Bộ luật này không được thực hiện việc giám định”.
2.2. Về định giá tài sản và thẩm định giá tài sản
Thực tiễn áp dụng quy định của Điều 92 BLTTDS và hướng dẫn tại mục 7 Phần IV Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005BLTTDS về việc thành lập Hội đồng định giá tài sản thường gặp nhiều vướng mắc, nhiều trường hợp Toà án cấp huyện hoặc Toà án cấp tỉnh ra quyết định thành lập Hội đồng định giá với thành phần các cơ quan chuyên môn theo yêu cầu định giá nhưng cơ quan chuyên môn trả lời không có chức năng nhiệm vụ thực hiện, nhiều cơ quan chuyên môn từ chối cử người tham gia, nhiều người được cử luôn từ chối làm chủ tịch Hội đồng. Điều này dẫn đến thời gian giải quyết vụ án kéo dài, cản trở việc Toà án tiến hành việc giải quyết vụ án, gây bức xúc cho các đương sự. Mặt khác, các quy định về quyền, nghĩa vụ tố tụng của thành viên tham gia định giá tài sản chưa rõ dẫn tới không có cơ sở pháp lý xác định trách nhiệm, quyền lợi của người được trưng cầu định giá tài sản. Bên cạnh đó, hiện nay ở nhiều địa phương đã có các tổ chức thẩm định giá, nhiều trường hợp các bên đương sự yêu cầu Toà án chấp nhận giá của các Tổ chức thẩm định giá, và đề nghị lấy kết quả định giá của Tổ chức thẩm định giá làm cơ sở giải quyết vụ án…
Từ những bất cập nêu trên, khoản 20 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS bổ sung Điều 92 BLTTDS các quy định sau:
- Các bên có quyền tự thoả thuận về việc xác định giá tài sản, lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản;
- Chủ tịch Hội đồng định giá là đại diện cơ quan tài chính;
- Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 46 của Bộ luật này không được tham gia Hội đồng định giá;
- Trường hợp cơ quan tài chính, các cơ quan chuyên môn không cử người tham gia Hội đồng định giá; người được cử tham gia Hội đồng định giá không tham gia mà không có lý do chính đáng thì tuỳ theo mức độ vi phạm bị xử lý theo quy định của pháp luật;
- Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Toà án yêu cầu tổ chức thẩm định giá tài sản tiến hành thẩm định giá [11]. Việc thẩm định giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về thẩm định giá tài sản. Kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định giá được tiến hành đúng theo quy định của pháp luật.
- Quy định trách nhiệm của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành [12].
2.3. Về yêu cầu các cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ
Khi đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được chứng cứ thì có thể yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được đúng đắn. Vấn đề yêu cầu các cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ được quy định tại Điều 94 BLTTDS năm 2004 và hướng dẫn tại mục 8 Phần IV Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Tại khoản 21 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS chỉ bổ sung chủ thể là Viện kiểm sát cũng có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình chứng cứ và quy định rõ trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ trong trường hợp không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Toà án, Viện kiểm sát thì tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật.
V. VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN, THỜI HIỆU YÊU CẦU
Vấn đề thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được quy định tại Điều 159 BLTTDS và hướng dẫn tại mục 2 Phần IV Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005. Tại khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã sửa đổi như sau:
Điều 159. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu
1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì thực hiện như sau:
a) Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện;
b) Tranh chấp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ các việc dân sự có liên quan đến quyền dân sự về nhân thân của cá nhân thì không áp dụng thời hiệu yêu cầu.[13]
Như vậy, theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS thì việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện như sau:
1. Việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự được thực hiện như sau:
1.1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
* Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác nhau. Do đó, trong trường hợp xảy ra tranh chấp hoặc có yêu cầu liên quan đến chuyên ngành nào thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được xác định theo quy định của luật chuyên ngành đó.
Ví dụ 1: Đối với tranh chấp về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm thì theo quy định tại Điều 30 của Luật kinh doanh bảo hiểm, thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp.
Ví dụ 2: Đối với các tranh chấp về lao động thì thời hiệu khởi kiện các tranh chấp được quy định tương ứng tại Điều 167 của Bộ luật lao động.
* Trong trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì những tranh chấp sau không áp dụng thời hiệu khởi kiện: tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; và tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
a) Tranh chấp không áp dụng thời hiệu khởi kiện
Tranh chấp ai có quyền sở hữu tài sản và ai có quyền sử dụng đất, tranh chấp chia tài sản chung; tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất, tranh tranh chấp đòi tài sản do người khác chiếm hữu, sử dụng thì không áp dụng thời hiệu
b) Trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện nhưng pháp luật có quy định khác thì áp dụng quy định đó.
- Đối với các tranh chấp đòi lại động sản, bất động sản theo quy định này thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định tại khoản 3 Điều 159 BLTTDS nhưng khi giải quyết tranh chấp vụ án dân sự liên quan đến quyền sở hữu thì phải căn cứ vào khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự năm 2005 được xác định theo thời hạn được hưởng quyền sở hữu của người chiếm hữu, người được lợi về tài sản chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai tài sản đó (mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản).
- Luật sở hữu trí tuệ không có quy định về thời hiệu khởi kiện về các tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ. Khi giải quyết vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ thì không khoản 3 Điều 159 BLTTDS nhưng áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định về thời hạn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo Luật sở hữu trí tuệ.
c) Áp dụng thời hiệu khởi kiện với các giao dịch dân sự
- Trường hợp các tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu xuất phát từ giao dịch dân sự (có việc chuyển giao tài sản như mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay[14]..) mà Bộ luật dân sự đã có quy định về thời hiệu khởi kiện đối với những loại tranh chấp đó thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.
- Đối với giao dịch dân sự như hợp đồng gửi giữ tài sản, thuê tài sản, thuê khoán tài sản, hợp đồng gia công, hợp đồng vận chuyển thì giải quyết như sau:
+ Trong trường hợp đương sự khởi kiện tranh chấp về hợp đồng thì khi giải quyết Toà án áp dụng quy định thời hiệu khởi kiện tại Điều 427 của Bộ luật dân sự và các quy định của pháp luật chuyên ngành về thời hiệu khởi kiện để giải quyết.
+ Trong trường hợp đã hết thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 427 Bộ luật dân sự và tại các quy định của pháp luật chuyên ngành về thời hiệu khởi kiện mà các bên khởi kiện đòi lại tài sản thì Toà án thụ lý để giải quyết.
1.2. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự
a) Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Đối với yêu cầu dân sự mà trong văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu giải quyết thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu.
Ví dụ: Theo quy định tại khoản 1 Điều 360 BLTTDS thì thời hạn yêu cầu công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam là 30 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Toà án nước ngoài. Quyền yêu cầu được xác định kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Toà án nước ngoài.
b) Không áp dụng thời hiệu yêu cầu đối với các việc dân sự có liên quan đến quyền dân sự về nhân thân của cá nhân.
Ví dụ 1: Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; yêu cầu huỷ bỏ quyết định một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự quy định tại Điều 321 và 322 BLTTDS;
Ví dụ 2: Yêu cầu tuyên bố một người mất tích; huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích quy định tại Điều 330 và Điều 333 của BLTTDS;
Ví dụ 3: Yêu cầu tuyên bố một người là đã chết; yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết quy định tại Điều 335 và 338 của BLTTDS;
Ví dụ 4: Yêu cầu hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên theo quy định tại Điều 41 Luật hôn nhân gia đình.
2. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại Điều 160 của BLTTDS thì các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự, do đó, việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện... được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự.
3. Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu
3.1. Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện
Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm và được xác định như sau:
- Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định thời hạn thực hiện, nếu hết thời hạn đó mà bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ, thì ngày kế tiếp sau ngày hết hạn thực hiện nghĩa vụ là ngày biết được quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm;
- Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên không thoả thuận hoặc pháp luật không quy định thời hạn thực hiện, nhưng theo quy định của pháp luật các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho nhau biết trước trong một thời gian hợp lý, nếu hết thời hạn đã được thông báo đó bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày kế tiếp sau ngày hết thời hạn đã được thông báo là ngày biết được quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm;
- Trường hợp khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự, các bên có thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ, thì ngày biết được quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm là ngày kế tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn kéo dài theo đã được các bên thoả thuận;
- Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà có vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên đều biết được việc vi phạm hoặc theo quy định của pháp luật bắt buộc các bên phải biết, thì ngày biết được vi phạm là ngày trên thực tế bên bị vi phạm biết được hoặc bắt buộc phải biết, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Nếu một bên đơn phương đình chỉ hợp đồng mà đã báo cho bên kia biết thì ngày đơn phương đình chỉ hợp đồng là ngày biết được quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
- Đối với trường hợp đòi bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng, thì ngày xảy ra hành vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng… là ngày biết được quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Trong một quan hệ pháp luật hoặc trong một giao dịch dân sự, nếu hành vi xâm phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày biết được hành vi xâm phạm cuối cùng đã xảy ra.
- Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a1, a2, a3, a4, a5 và a6 tiểu mục 2.2 nếu các bên có thoả thuận khác về thời hiệu, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính theo thoả thuận của các bên.
3.2. Thời điểm bắt đầu thời hiệu yêu cầu
Thời điểm bắt đầu thời hiệu yêu cầu được tính từ ngày phát sinh quyền yêu cầu. Ngày phát sinh quyền yêu cầu là ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm, như: bị lừa dối, đe doạ, bị nhầm lẫn, vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, hoặc không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình khi thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 45 của Luật công chứng năm 2006, thì công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đề nghị Toà án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật. Trong trường hợp này thì thời hiệu yêu cầu được tính từ ngày đề nghị Tòa án có yên bố văn bản công chứng vô hiệu.
Tóm lại, những quy định về Phần chung của BLTTDS được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tinh thần của cải cách tư pháp và sự thống nhất chung của hệ thống pháp luật đồng thời giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn. Tuy nhiên có nhiều những vấn đề mới quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS cũng cần được nghiên cứu, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể hơn để việc áp dụng pháp luật được đúng đắn và thống nhất.



([1]). TANDTC (2006), “Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2007 của ngành Tòa án nhân dân”, tr. 21.
([2]). TANDTC (2010), “Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự”, tr. 10.
[3] Những sửa đổi, bổ sung được in đậm nghiêng.
([4]). Xem: Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08 - NQ/TƯ ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà nội, tr. 3, 4.
([5]).VKSNDTC (2010), Công văn số 2289/VKSTC - V8 ngày 02/8/2010 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc góp ý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS.
([6]). TANDTC (2010), Tờ trình Quốc Hội về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS ngày 30/9/2010, tr. 15.
[7] Tòa án nhân dân tối cao, “Một số vướng măc trong việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại và hướng giải quyết”, Tham luận của Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao, Tài liệu tham khảo Hội nghị triển khai công tác
năm 2010 của ngành Tòa án nhân dân, tháng 01-2010, tr 89.
[8] Xem khoản 48 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS
[10] Về biện pháp ủy thác tư pháp cần xem thêm văn bản mới Thông tư liên tịch 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15-9-2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại Giao, Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định
về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật tương trợ tư pháp
[11]Xem Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ về thẩm định giá
[12] Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao đang chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên quan để xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn về vấn đề này.
[13] Những nội dung in nghiêng là những nội dung được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS.
[14] Đối với hợp đồng cho vay tài sản là tiền thì hiện nay có hai quan điểm khác nhau về hậu quả của việc hết thời hiệu khởi kiện. Quan điểm thứ nhất cho rằng mặc dù hết thời hiệu khởi kiện nhưng người cho vay vẫn có quyền
khởi kiện đòi lại tiền gốc cho vay nhưng không được đòi tiền lãi trên nợ gốc. Quan điểm thứ hai thì cho rằng khi hết thời hiệu khởi kiện mà người cho vay không khởi kiện thì người này mất quyền khởi kiện và mất luôn số tiền cho vay cùng lãi suất trên số tiền cho vay.


TS. Nguyễn Văn Cường - Thẩm phán TANDTC 
Nguồn: Phó Viện trưởng Viện khoa học xét xử TANDTC

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

100 CÂU HỎI VỀ TRỌNG TÀI QUỐC TẾ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ HỒNG KÔNG

Vấn đề có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bổ nhiệm mới Chánh Tòa Hành chính, Trưởng, Phó phòng Tồ chức cán bộ và Phòng giám đốc kiểm tra